Linh Phi Kinh

Quyển 3 - Chương 12: Cô đảo Vô Song (1-5)

Phượng ca

26/11/2016

Những kẻ dưới nước giết chóc lẫn nhau, mặt biển bỗng chốc hóa thành một trường đồ sát. Dẫu cho Tịch Ứng Chân từng trải qua trăm trận lớn nhỏ cũng chưa bao giờ chứng kiến cảnh tượng ác liệt như vậy. Ông liên tục quát dừng nhưng chẳng một ai thèm bận tâm. Những kẻ may mắn sống sót vì để thoát khỏi hiểm cảnh đều liều mạng hãm hại đồng loại. Tịch Ứng Chân chỉ cảm thấy ớn lạnh trong lòng, liếc mắt nhìn sang Xung đại sư, hòa thượng nhắm mắt chắp tay, dáng vẻ như đang tham thiền nhập định. Tịch Ứng Chân bất giác thở dài, nghĩ thầm: “Tên hòa thượng này không những thủ đoạn ác độc mà khả năng khống chế nhân tâm còn giỏi hơn cả võ công.”

Ông căng mắt nhìn ra xa, chứng kiến Nhạc Chi Dương bị Minh Đấu đánh lén, trong lòng đang hết sức lo lắng, chợt thấy Diệp Linh Tô giải cứu cho gã, bấy giờ mới tạm thời thở phào nhẹ nhõm. Ông vốn định xông đến trợ giúp, thế nhưng một khi rời khỏi con thuyền nhỏ thì Xung đại sư chắc chắn sẽ dong thuyền đi mất. Đang do dự, ông chợt thấy Diệp Linh Tô kéo theo Nhạc Chi Dương bơi dạt đi thật xa, tay liên tục phát ra “Dạ Vũ Thần Châm”, cứ hễ Minh Đấu tiếp cận thì cô lại bắn châm bức lão lùi lại.

Minh Đấu chẳng biết làm sao đối phó Diệp Linh Tô, bèn giận cá chém thớt, tay trái một chưởng, chân phải một cước, đánh cho những người lướt qua bên cạnh không chết cũng bị thương. Mọi người đồng thanh hét to, chia nhau xông lên vây công. Minh Đấu bình tĩnh không hoảng sợ, tay đấm chân đá, quấy lên một đợt sóng cao hơn mấy thước, khí thế như hổ lùa đàn dê, tả xung hữu đột không ai kháng cự nổi. Bên cạnh lão, xác người lật nhào, máu tươi tung tóe. Chưa đầy hai nén hương, tiếng la hét đã im bặt, mặt biển mênh mông lặng ngắt như tờ, im ắng đến mức khiến cho người ta sởn gai ốc.

Minh Đấu giết chóc đến đỏ bừng mắt, lại lướt về phía một tên đệ tử Đông Đảo. Kẻ nọ thấy Minh Đấu xông đến gần, sợ muốn vỡ mật, lắp bắp nói:

– Minh sư thúc, đủ… đủ người rồi!

Minh Đấu nghe tiếng giật mình, quay đầu nhìn lại, tính cả Diệp Linh Tô và Nhạc Chi Dương lúc này đúng là còn lại bốn người thật. Lão đảo tròn mắt một vòng, xua tay cười xòa:

– Được thôi, chúng ta cùng lên thuyền nào.

Tên đệ tử nọ như trút bỏ gánh nặng, xoay người bơi về hướng thuyền cứu sinh, mắt thấy mạn thuyền đã ở phía trước, nào ngờ Minh Đấu lặng lẽ tiến đến gần, phát một chưởng lên đỉnh đầu của hắn. Kẻ nọ dập nát sọ, lập tức chìm nghỉm xuống đáy nước. Tịch Ứng Chân vừa bất ngờ vừa phẫn nộ, quát:

– Minh Đấu, đã đủ số lượng rồi, sao ngươi còn phải giết người?

Minh Đấu vịn đuôi thuyền nhảy lên boong, cười khà khà bảo:

– Bớt một người chẳng phải thuyền sẽ đi nhanh hơn sao?

Nói đến đây, lão liếc sang Xung đại sư, ánh mắt hết sức âm u. Xung đại sư biết lão đang nghĩ gì, mỉm cười mà rằng:

– Bần tăng bỏ lại Minh huynh thật là có chỗ chưa đúng, nhưng nếu đổi lại là Minh huynh, thiết nghĩ cũng sẽ như bần tăng mà thôi.

Minh Đấu ngầm nghĩ rồi gật gù:

– Không sai, ngươi bỏ rơi ta trên thuyền lớn, bất chấp ta đang thay ngươi ngăn cản kẻ địch. Hừ, đổi lại là ta, ta cũng sẽ làm thế với ngươi.

Xung đại sư chấp tay cười:

– Thiện tai, thiện tai.

Nói dứt lời, hai người liếc mắt nhìn nhau, cùng vỗ tay cười vang.

Tịch Ứng Chân ngấm ngầm đề phòng, hai tên này lấy một đấu một thì đều không phải là địch thủ của ông, nhưng nếu liên thủ thông đồng thì lại hết sức đáng lo ngại. Đang suy nghĩ thì Nhạc Chi Dương và Diệp Linh Tô cũng vừa bơi lại gần, lúc cả hai trèo được lên thuyền thì đều đã kiệt sức rã rời. Nhất thời, trên thuyền lúc này có năm người chia ra làm hai nhóm. Nhóm ba người Tịch Ứng Chân chiếm giữ đầu thuyền, nhóm hai người Xung đại sư cát cứ đuôi thuyền. Song phương đều hận thù nhau cực độ, tuy nhiên nếu xảy ra đánh nhau chắc chắn sẽ khiến thuyền lật người vong, vì vậy họ tạm thời hòa hoãn, chỉ ngồi gườm gườm nhìn nhau.

Nhạc Chi Dương trúng phải một chiêu “Thao Thiên Khí” của Minh Đấu, mặt mày tái nhợt, nhịp thở rối loạn. Tịch Ứng Chân ngầm vận nội kình xoa bóp sau lưng cho gã. Nội lực của lão đạo sĩ mạnh như hồng thủy nhanh chóng khai thông những chỗ bị bế tắc. Khí mạch của Nhạc Chi Dương thông suốt, gã thở phào một hơi, mặt mày lấy lại huyết sắc, cất tiếng:

– Đa tạ đạo trưởng!

Tịch Ứng Chân lắc đầu nói:

– Nếu muốn đa tạ thì hãy đa tạ con bé kia kìa. Nếu không có nó, nhà ngươi đã đi đời nhà ma rồi.

Nhạc Chi Dương ngó sang Diệp Linh Tô, thấy cô thần sắc lãnh đạm, đang nhìn về một phía, gã cười gượng:

– Diệp cô nương, đa tạ ơn cứu mạng.

Diệp Linh Tô lặng thinh không đáp. Minh Đấu cười lạnh, bảo:

– Diệp nha đầu, kim châm của ngươi rốt cuộc còn lại bao nhiêu? Ta không tin cái thứ đồ chơi ấy xài mãi không hết.

Diệp Linh Tô trừng mắt nhìn lão, hai mắt tóe lửa:

– Đại phản đồ, ta còn bao nhiêu kim châm ngươi muốn biết thì cứ thử.

Hai người khiêu khích lẫn nhau, tình thế căng như dây đàn, Xung đại sư vội can:

– Hai vị mau bớt nóng, mọi người khó khăn lắm mới sống sót được, đáng lý phải đồng tâm hiệp lực. Trên thuyền này, một là thiếu thức ăn, hai là không có nước uống, ngồi đực ra đây không phải là cách lâu dài, mọi người thử suy nghĩ xem có nơi nào ổn thỏa có thể đi đến được hay không?

Diệp Linh Tô mắng nhiếc:

– Giả ra vẻ người tốt làm gì? Hạng tặc tử như ngươi lý ra phải chết sạch thì gầm trời này mới mong được thái bình.

Xung đại sư cười đáp:

– Cô nương sao lại rủa ta? Nếu như có chỗ đắc tội, bần tăng xin nhận lỗi với cô.

Diệp Linh Tô còn đang định mai mỉa thêm thì Tịch Ứng Chân đã ngăn cô lại, cao giọng hỏi:

– Trúc Nhân Phong và Thích Vương Tôn đi đâu cả rồi?

Xung đại sư và Minh Đấu ngước nhìn nhau, ánh mắt sa sầm. Xung đại sư ơ hờ đáp:

– Ừ nhỉ, bọn họ đi đâu ta cũg đang thắc mắc đây?

Tịch Ứng Chân đanh giọng nói:

– Đại hòa thượng, đến nước này ngươi còn muốn che giấu sự thật ư. Ta hỏi ngươi, ngươi đến nơi đây để làm gì?

Xung đại sư sửng người, cười bảo:

– Đương nhiên là trở về Trung Thổ rồi.

– Nói láo! – Diệp Linh Tô cướp lời: – Con đường biển này vốn không phải là lối để về Trung Thổ!

Xung đại sư mỉm cười:

– Biển cả mênh mông, đi nhầm chạy lạc cũng là điều khó tránh khỏi.

Diệp Linh Tô liếc mắt nhìn Minh Đấu, cười lạnh:

– Ngươi đi sai còn hiểu được, chứ Minh Đấu qua lại Trung Thổ không dưới trăm lần, lẽ nào mỡ lợn dồn hết lên đầu lão đến nỗi mù cả mắt rồi?

Minh Đấu nổi sùng, bật dậy hét lớn:

– Con ranh, ngươi dám mắng người?

Diệp Linh Tô nói:

– Ta đang mắng chó, ai nói ta mắng người nào?

Minh Đấu giẫm chân một cái, con thuyền trở nên tròng trành. Xung đại sư vội vàng kéo lấy tay áo của lão, cười khà khà bảo:

– Diệp cô nương chỉ biết một mà không biết hai, con đường biển mà cô nói vốn là dẫn xuống Giang Nam, còn con đường biển chúng ta đi lại hướng về phương Bắc.

Tịch Ứng Chân hừ một tiếng, bảo:

– Giỏi cho đại hòa thượng, nói dối mà không hề đỏ mặt.

Xung đại sư nhíu mày:

– Sao ngài nói vậy?

Tịch Ứng Chân đáp:

– Ta có hiểu biết đôi chút về hải đồ, con đường biển này nếu đi về phía trước chắc chắn sẽ dẫn đến một hòn đảo hoang.

Xung đại sư và Minh Đấu lập tức biến sắc, dõi mắt nhìn nhau, vẻ mặt kinh ngạc. Xung đại sư lặng im một lúc, chậm rãi nói:

– Cớ sao Tịch đạo trưởng lại biết ở phía trước có một hòn đảo hoang?

Tịch Ứng Chân nói:

– Việc này ngươi không cần quan tâm, nhưng ta biết rõ hòn đảo ấy có liên quan đến Thích gia, bằng không Trúc Nhân Phong sẽ không dẫn theo Thích Vương Tôn cùng bỏ trốn!

Xung đại sư ngẩng đầu lên, hai mắt lấp lánh phát sáng, quan sát gương mặt Tịch Ứng Chân mấy lượt, bất chợt y chấp tay cười:

– Thiện tai, thiên tai, hóa ra Tịch chân nhân cũng biết về cổ mộ Ấn Thần.

– Cổ mộ Ấn Thần? – Ba người kia đều tỏ vẻ sửng sốt.

Xung đại sư trông sắc mặt bọn họ thông qua lời vừa tiết lộ mới biết rằng đối phương chưa biết về sự việc này, trong bụng lập tức hối hận vô cùng, nhưng lời đã ra khỏi miệng, đành bất chấp nói luôn:

– Các vị không biết sao? Hoang đảo mà Tịch chân nhân đề cập đến chính là gốc gác của đảo Linh Ngao, là nơi chôn cất của đại kỳ nhân Thích Ấn Thần.

Nhạc Chi Dương nhớ lại câu chuyện xưa mà Triệu Thế Hùng từng kể, trống ngực đập vang thình thịch. Tịch Ứng Chân vuốt râu suy tư, thật lâu mới lên tiếng:

– Đại hòa thượng, ngươi mò đến mộ người ta làm gì?

Xung đại sư đáp:

– Tịch chân nhân đã từng nghe qua “Đại Tượng Vô Hình Quyền” chưa?

– Có nghe loáng thoáng! – Tịch Ứng Chân nói: – Môn võ công ấy cùng với Vô Tướng Thần Châm và Thừa Phong Đạo Hải được liệt vào hàng tam đại tuyệt kỹ của đảo Linh Ngao, nhưng cả trăm năm nay chưa từng nghe nói có cao thủ nào tinh thông bộ quyền pháp này cả.

– Không nghe cũng chẳng có gì lạ. – Xung đại sư mỉm cười: – Bởi vì từ xưa đến nay ở Đông Đảo, chưa một ai chân chính luyện thành môn võ công này.

Tịch Ứng Chân cười lạnh:

– Lẽ nào bộ quyền pháp này nằm dưới mộ của Thích Ấn Thần?

Xung đại sư cười đáp:

– Biết đâu được đấy!

– Hay cho câu “Biết đâu được đấy”! – Tịch Ứng Chân vỗ đét vào mạn thuyền, cao giọng bảo: – Chỉ bằng vào một câu nói của ngươi thì có thể đi đào lăng mộ của cổ nhân ư?

Xung đại sư cười ha hả, Tịch Ứng Chân nhíu mày nói:

– Ngươi cười cái gì?

Xung đại sư đáp:

– Chân nhân có điều không biết, kế đào mộ này không phải phát xuất từ bần tăng đâu mà là từ chính Thích gia.

– Thích Vương Tôn? – Nhạc Chi Dương buộc miệng thốt: – Thằng già ấy mà lại muốn đào tổ phần của nhà mình lên ư? Lừa trọc à, ngươi gạt ai đấy?

Xung đại sư mỉm cười bảo:

– Người này tuổi tác đã cao nhưng lại không biết võ công, thành ra chả có hứng thú gì với võ học bí tịch trong mộ cả, nhưng nghe nói bên trong đó ngoài võ học bí tịch ra còn có rất nhiều kỳ trân dị bảo, nếu như có thể lấy ra được thì nhất định sẽ sống phú quý vinh hoa riêng một cõi.

– Nói nhăng nói cuội! – Diệp Linh Tô châm chọc: – Hắn ta là hậu duệ con nhà nòi, làm sao mà không học võ công chứ? Rõ ràng là ngươi xúi giục hắn tự đào tổ phần lên, dạy người khác làm bậy, ngươi đúng là lòng ma dạ quỷ.

– Cô nương đổ oan cho bần tăng rồi! – Xung đại sư ra vẻ uất ức: – Đến khi gặp được Thích Vương Tôn, cô có thể hỏi hắn cho rõ. Bần tăng cùng lắm chỉ có bảo hắn đến Đông Đảo xưng vương chứ nhất quyết không dạy hắn đào mồ trộm mả của tổ tông.

Tịch Ứng Chân bán tín bán nghi, bảo:

– Nếu lời ngươi nói là thật, Thích Ấn Thần có đứa cháu như vậy quả là điều bất hạnh vô cùng.

Ánh mắt của ông lướt sang Minh Đấu:

– Minh tôn chủ, tại Đông Đảo ngươi ở dưới một người, trên cả ngàn người, cớ sao lại dẫn kẻ thủ vào nhà phản bội bổn đảo.

Cơ mặt Minh Đấu co giật mấy cái, thản nhiên nói:

– Ở trên ngàn người thì đương nhiên tốt, nhưng ở dưới một người thì lại chẳng có ý nghĩa gì.

Tịch Ứng Chân gật đầu:

– Không sai, chỉ cần ép Vân Hư bỏ đi, phù trợ cho Thích Vương Tôn, thì ngươi có thể nghiễm nhiên mượn oai hùm, nắm toàn bộ quyền lực của Đông Đảo trong tay; cùng với bọn Mông Nguyên, bên Bắc bên Nam liên kết phối hợp.

Minh Đấu hừ một tiếng, không thèm đáp trả. Nhạc Chi Dương chớp mắt, cười khì khì:

– Tịch đạo trưởng nói sai rồi, Minh tiên sinh làm như vậy thì có phần “Người không như tên” đấy.

Tịch Ứng Chân khó hiểu, thắc mắc:

– Sao lại là “Người không như tên”?

Nhạc Chi Dương cười đáp:

– Minh tiên sinh tên là Minh Đấu, đáng lý phải là một người quang minh chính đại, cho dù có đánh nhau với kẻ khác thì cũng chọn cách công khai. Thế nhưng như Tịch đạo trưởng vừa nói, đó chẳng phải gọi là cách thập thò lén lút hay sao? Thập thò thì khác nào bọn giòi bọ trong hố xí, lén lúc thì cứ như lũ chuột trong hang sâu, rúc mình trong chốn tăm tối, quanh năm không thấy ánh sáng mặt trời. Minh tiên sinh giả sử làm như vậy chẳng phải đúng là người không như tên hay sao?

– Con mẹ nhà ngươi! – Minh Đấu đột nhiên nổi điên, tung một chưởng về phía Nhạc Chi Dương. Tịch Ứng Chân trông thấy rành rành, bèn giơ tay lên nghênh đỡ, chưởng lực còn chưa chạm nhau, Xung đại sư liền tống ra hai quyền ầm ập về phía hai người. Hai người đành phải rút chưởng về bảo vệ, nào ngờ hòa thượng vừa đánh đã thôi, nhẹ nhàng thu hồi quyền kình, chắp tay cười nói:

– Xin hai vị ngừng tay, thắng bại chỉ là thứ yếu, con thuyền nhỏ nhoi này sợ là không chịu nổi thần công của hai vị đâu.

Minh Đấu hừ một tiếng, trừng mắt nhìn Nhạc Chi Dương, hận không thể một chưởng đánh chết tươi gã cho xong. Vốn ở lần luận kiếm vừa rồi, Minh Đấu đã nằm chắc chiến thắng, nào ngờ bị Nhạc Chi Dương chen chân vào phá đám, khiến cho giấc mộng của lão tan thành mây khói, bị ép phải bỏ đảo ra đi. Mối hận này cao tày trời, Minh Đấu thầm thề trong bụng rằng, chỉ cần Nhạc Chi Dương rơi vào tay lão, lão nhất định sẽ nghiến thịt da gã ra bùn ra đất.

Xung đại sư nhìn trái ngó phải, đánh giá tình hình, miệng thì cười nói:

– Tịch chân nhân, theo cách ngài nói, thì hình như ngài đã biết phương hướng của cổ mộ Ấn Thần rồi?

Tịch Ứng Chân liếc mắt nhìn y, cười hỏi:

– Ngươi không biết sao?

– Nói ra thật xấu hổ. – Xung đại sư thở dài thườn thượt: – Thích Vương Tôn sợ ta có được hải đồ rồi sẽ bỏ hắn mà đi, nên trước sau chẳng chịu nói rõ cổ mộ nằm ở đâu. Trúc Nhân Phong khi bỏ chạy đã tóm được hắn theo cùng, lúc này bọn họ hẳn nhiên đã lên được hòn đảo nọ, nếu như chúng ta đến nơi quá muộn, họ Trúc nhất định sẽ vào trong mộ trước, đoạt được chân truyền của Thích Ấn Thần.

Trúc Nhân Phong dâm tà độc ác, nếu như có được bí tịch của Đông Đảo, thật sự đúng là đáng quan ngại. Tịch Ứng Chân còn lưỡng lự chưa quyết, Nhạc Chi Dương đã cướp lời nói trước:

– Dẫn các ngươi đi cổ mộ cũng được, nhưng phải có điều kiện thế chấp?

Tịch Ứng Chân thấy gã đồng ý, mặt lộ vẻ không vui, chợt thấy Nhạc Chi Dương nháy mắt với mình một cái, ông đành kềm lòng lại để xem gã đang có mưu tính gì.

– Thế chấp? – Xung đại sư nhíu mày: – Thế chấp cái gì mới được?

Nhạc Chi Dương mỉm cười:

– Hai ngươi nhân phẩm xấu xa, ra vẻ thật thà trước mắt chẳng qua chỉ vì đang ngồi chung một thuyền. Một khi rời thuyền lên bờ, nhất định sẽ trở mặt ra tay ngay. Đại hòa thượng, ngươi giao ra “Thiên Cơ Thần Công Đồ” xem như vật thế chấp, nếu như các ngươi giở quẻ, ta sẽ hủy đi bộ bí đồ cơ quan này.

Xung đại sư nghe xong lời này lập tức giận tái mặt, y vất vả biết bao nhiêu mới có được “Thiên Cơ Thần Công Đồ”, bản đồ này có can dự đến đại kế phục quốc, làm sao có thể dễ dàng giao cho người khác được? Trong lòng y nổi cơn tam bành nhưng trên mặt giả bộ như không cảm xúc. Minh Đấu thì không kềm được tức tối, cao giọng quát:

– Thằng chó họ Nhạc, ngươi vừa đánh rắm cái gì đấy? Xung đại sư đang nói chuyện với Tịch Ứng Chân, khi nào đến phiên ngươi chõ mõm vào?

Minh Đấu đang lúc ngả lòng, từ chán nản trở thành dễ cáu gắt. Ngờ đâu lời của Nhạc Chi Dương vừa hợp với suy nghĩ của Tich Ứng Chân, lão đạo sĩ mỉm cười:

– Nhạc Chi Dương nói không sai, vị trí của hòn đảo đúng là bần đạo biết rõ, thế nhưng nhân phẩm của hai vị rất đáng ngờ, đến lúc lên được trên đảo rồi nhất định sẽ hợp sức tấn công. Bần đạo đánh không lại các ngươi, so ra nếu như chết trên đảo chẳng thà chết dưới biển cho rồi.

– Không sai! – Diệp Linh Tô tiếp lời: – Cho dù bọn ta có chết cũng không thể để cho các ngươi thực hiện được âm mưu đào mộ, làm kinh động đến anh linh của Thích tiền bối.

Minh Đấu giận tím mặt tím mày, bàn tay siết chặt run lên từng hồi. Xung đại sư trầm tư suy nghĩ một lúc rồi cho tay vào ngực áo, lôi ra một bộ sách dày cộp, mỉm cười:

– Thôi vậy, thế chấp thì thế chấp, ta giao bộ sách này cho chân nhân là được!

Nói rồi y tiện tay ném đi. Tịch Ứng Chân biết y thủ đoạn quỷ quyệt, chỉ sợ có điều xảo trá bên trong, liền không đưa tay ra bắt lấy mà đợi khi quyển sách rơi xuống sàn thuyền mới từ từ nhặt lên. Ông tinh thông thuật số âm dương, đối với kiến thức về cơ quan cũng hiểu biết phần nào, lật xem vài trang cảm thấy không có gì đáng ngờ mới cuộn sách lại cho vào lồng ngực, cười sang sảng bảo:

– Hòa thượng cầm được buông được, xem ra cũng là người phóng khoáng.

– Nào dám, nào dám. – Xung đại sư mỉm cười: – Đạo trưởng đã có được tín vật rồi, xin hướng cho bọn ta một con đường đi đúng đắn.

Tịch Ứng Chân đang định trả lời, chợt có người kéo lấy tay áo, ông quay đầu lại, chỉ thấy Nhạc Chi Dương ghé sát tai ông thầm thì:

– Sách đã vào tay ta rồi, đừng khách sáo với bọn chúng làm gì, biển cả mênh mông trước mắt khó mà phân rõ phương hướng, hay là dẫn bọn chúng về đảo Linh Ngao, hai tên cẩu tặc này chắc chắn không biết mô tê gì đâu.

Xung đại sư luyện được thiên nhĩ thần thông, trong vòng trăm bước có thể nghe cả tiếng lá rơi, tuy rằng Nhạc Chi Dương nói rất khẽ nhưng cũng bị y nghe rõ mồn một. Y nhất thời nổi sùng, hận không thể một đấm đánh chết toi tên tiểu tử này đi. Minh Đấu cũng cảm thấy khả nghi, cao giọng quát:

– Thằng chó họ Nhạc, ngươi thầm thì mờ ám gì đó?

Nhạc Chi Dương ho khan vài tiếng, bảo:

– Ta nói Minh tôn chủ là một người rất tốt, tiếc là ăn phân nhiều quá nên nói chuyện còn thối hơn cả xì hơi.

Minh Đấu mới nghe nửa câu đầu còn ngờ ngợ, nghe đến nửa câu sau lập tức nổi trận lôi đình.

Tịch Ứng Chân xua tay nói:

– Minh tôn chủ không cần nổi giận. Nhạc Chi Dương đúng là có nói ra một kế không có lợi cho các ngươi, nhưng bần đạo đã hứa với hai vị, quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy, bần đạo nói được là làm được, quyết không nuốt lời sai hẹn.

Nhạc Chi Dương trong lòng quýnh quáng, liên tục giật giật chéo áo của ông nhưng Tịch Ứng Chân cố tình không lý đến. Diệp Linh Tô lạnh lùng nói:

– Nhạc Chi Dương, đừng quấy quá nữa, ngươi không nghe rồi sao, người ta đường đường là bậc quân tử sao có thể so với cái hạng vô lại như nhà ngươi được.

Nhạc Chi Dương cũng biết Tịch Ứng Chân một khi tâm ý đã quyết thì chẳng cách nào lay chuyển, đành buông một tiếng thở dài.

Xung đại sư biết rõ căn nguyên kết quả, không khỏi thở phào một hơi, cung tay cười nói:

– Tịch đạo trưởng tấm lòng bao la, hòa thượng xin bội phục, bội phục.

Tịch Ứng Chân nói:

– Ngươi không cần nghĩ một đằng nói một nẻo để vỗ mông ngựa như vậy, trên thuyền này không thức ăn không nước uống, trừ hòn đảo hoang kia ra cũng không còn nơi nào khác để đi, tuy nhiên ta xin nói trước, nếu các ngươi xâm phạm đến lăng tẩm của Thích tiền bối, lão đạo ta nhất định không khoanh tay đứng nhìn đâu.

– Được, được. – Xung đại sư cười khà khà: – Việc này đương nhiên!

Tịch Ứng Chân ngầng đầu nhìn trời, chợt bảo:

– Biển cả bao la, cần phải dựa vào ánh mặt trời để định vị.

Nói rồi ông dựng trường thương lên cao, dưới ánh sáng mặt trời chiếu vào, trường thương đổ ra một chiếc bóng dài thượt.

Xung đại sư vỗ tay cười:

– Định vị bằng bóng nắng à, thú vị, thú vị, đã từng nghe Tịch chân chân thông hiểu âm dương, am tường dịch lý, hôm nay chứng kiến quả nhiên danh bất hư truyền.

Tịch Ứng Chân liếc nhìn y, thản nhiên bảo:

– Hòa thượng nói chuyện lẻo lự thật, ba cái trò vặt vãnh này sao có thể qua mắt được truyền nhân Kim Cương.

Ông vừa nói vừa chăm chú phân tích quỹ đạo mặt trời, bấm tay tính toán vị trí của hòn đảo.

Nhạc Chi Dương mưu toan bất thành, trong lòng lấy làm thất vọng lắm, trông thấy cảnh trên không nhịn được tiến đến rỉ tai Tịch Ứng Chân:

– Lão à, ông không phải đang lừa người đấy chứ? Bộ trước đây ông từng đến cổ mộ Ấn Thần rồi ư?

– Chưa hề. – Tịch Ứng Chân khẽ lắc đầu: – Ngươi còn nhớ đêm hôm ấy phát hiện ra bức hải đồ khắc bên dưới pho tượng đá hay không?

Nhạc Chi Dương giật mình, kinh ngạc thốt:

– Hóa ra bức hải đồ ấy chính là lăng mộ của Thích Ấn Thần ư?

Tịch Ứng Chân gật gật đầu, rút trường thương lên, chỉ về phía xa:

– Chính là ở nơi đó!

Xung đại sư và Minh Đấu phấn chấn hẳn lên, chia nhau mỗi người một mái chèo, gắng sức lái thuyền rẽ nước mà đi. Nhạc Chi Dương trông thấy, không nhịn được cười:

– Hai vị không những võ công cao cường mà bản lĩnh chèo thuyền cũng không kém cạnh. Ông đây ngồi trên thuyền mà cảm thấy còn thoải mái hơn cả ngồi trên Bát Sĩ Đại Kiệu nữa.(*)

(ND chú: Bát Sĩ Đại Kiệu là loại kiệu tám người khiêng, dành cho các bậc đức cao vọng trọng)

– Khoác không biết ngượng! – Diệp Linh Tô xen vào: – Tên vô lại như ngươi mà cũng từng ngồi qua Bát Sĩ Đại Kiệu hay sao?

Nhạc Chi Dương phẩy tay nói:

– Bát Sĩ Đại Kiệu thì tính làm gì, ngồi bên trong ấy nếu không phải quan tham thì cũng là bọn ô lại, chuyên làm trò bẩn thỉu nhơ nhớp, thối tha khó ngửi, thi thoảng mới có một vài thanh quan, còn lại đa số đều là hạng tanh tưởi ngợp trời mà cứ thích nói chuyện thánh hiền Khổng Mạnh. Cô mà vào trong đó ngồi, không bị thối chết thì cũng ê buốt một vài cái răng đó!

Diệp Linh Tô vừa giận vừa tức cười, bảo:

– Không có bản lĩnh ngồi thì thôi đi, còn bày đặt lý do lý trấu làm gì?

Nhạc Chi Dương mỉm cười:

– Cô đừng xem thường người khác, nhỡ đâu mai mốt ông hoàng đế ổng cao hứng, lại ban thưởng cho ta một cổ kiệu để ngồi thì sao!

Diệp Linh Tô bảo:

– Chu Nguyên Chương thưởng kiệu cho ngươi ư? Có mà kiệu của Diêm Vương gia á, chẳng cần chặt đầu mà trực tiếp đưa tiễn ngươi vào âm tào địa phủ luôn.

Nhạc Chi Dương cười sằng sặc:

– Mặc kệ kiệu của ai, có thể ngồi được là tốt rồi. Diệp cô nương, đến khi đó mời cô vào ngồi với ta nhé?

Diệp Linh Tô hỏi:

– Ta ngồi vào làm gì?

Nhạc Chi Dương cười đáp:

– Đã nói rồi, cổ kiệu ấy vừa hôi vừa thối, cần phải có mùi vị khác để điều hòa lại. Có câu “Quốc sắc thiên hương”, cô nương đã có quốc sắc, hẳn nhiên sẽ có thiên hương, chỉ cần cô vào ngồi trong cổ kiệu ấy, tất cả mọi mùi xú uế đều sẽ biến mất sạch sẽ!

– Lẻo mép!

Diệp Linh Tô ngoài miệng thì mắng vậy, trong lòng lại ngầm vui sướng. Trời sinh ra cô vốn xinh đẹp, từ nhỏ quá quen với những lời tụng xưng, sớm đã chán ngấy mấy câu nịnh nọt, thế nhưng chả hiểu vì sao khi nghe mấy lời a dua tâng bốc từ miệng Nhạc Chi Dương nói ra, cô lại có cảm giác khác, trong lòng cứ mơ mơ hồ hồ, chỉ mong gã khen ngợi mình thêm vài câu nữa.

Nhạc Chi Dương nào biết được tâm tư con gái như vậy, thoắt cái gã lại quay sang móc mỉa hai tên đang è cổ chèo thuyền:

– Đại hòa thượng, dáng vẻ huơ chèo của ngươi thật giống với tư thế của chiêu “Hắc Hổ Đào Tâm” đó nha. Nói đến “Hắc Hổ Đào Tâm”, chẳng biết là tim của đại sư màu đen, hay là lông con hổ màu đen nữa, mà theo ta thấy quá nửa là tim ngươi hơi đen rồi. Ấy dà, Minh tôn chủ, đây chẳng phải là tuyệt chiêu trong Kình Tức Công của ông hay sao? Đầu ở trước, mông ở sau, vai rụt háng dạng, lúc lên lúc xuống, ba phần tựa kình ngư, bảy phần như vương bát (rùa biển). Í, phải rồi, nghe nói Kình Tức Công có sáu đại kỳ kình, không biết trong đó có chiêu “Vương Bát Khí” không nữa?(*)

(ND chú: trong tiếng Hán, Vươn bát ngoài nghĩa là rùa ra thì còn là tiếng lóng để chửi những tên vô lại, hay kẻ bị cắm sừng, mang ý nghĩa khinh miệt)

Xung đại sư nghe rồi vẫn thản nhiên như không, ngược lại Minh Đấu thì giận đến trợn trừng hai mắt, mất bao nhiêu sức lực mới kềm nén lại được ý muốn đánh người trong bụng, lão âm thầm thề độc: “Thằng nhóc ngươi cứ nói cho đã đi, sau này rơi vào tay lão tử rồi, lão tử sẽ cắt cái lưỡi ngươi ném cho rùa ăn.”

Đi chừng được hai giờ, biển cả trước mặt vẫn bao la tít tắp. Tịch Ứng Chân và Nhạc Chi Dương đổi tay chèo thuyền, lại chèo mất hai giờ nữa, phía chân trời bỗng xuất hiện một dải đen lờ mờ. Con thuyền nhỏ vẫn êm êm tiến về trước, dần dần một hòn đảo hoang hiện ra, hình dáng như một cái mâm tròn, trong ngoài gồm có ba lớp: lớp ngoài cùng chi chít đá ngầm đen sẫm như nhuộm mực, lớp giữa cỏ cây tươi tốt, sắc xanh rợp trời. Lớp trong cùng dường như có ngọc bích châu đen ôm trọn lấy một tòa núi lớn, vách đá dựng đứng, vươn cao chót vót, hình dáng như cổ thần Cự Linh(*) đang nhìn xuống trùng dương mờ mịt.

(ND chú: Cự Linh thần phát xuất từ truyện Tây Du Ký (phần Đại Náo Thiên Cung), là một chiến tướng dưới quyền Thác Tháp Thiên Vương, trách nhiệm chủ yếu là bảo vệ cổng thiên cung, nổi tiếng có sức mạnh vô song, từng trong một đêm dời non phá núi để cứu nhân gian khỏi nạn hồng thủy, là đại tướng tiên phong trong đợt thảo phạt Tôn Ngộ Không…)

Xung đại sư đứng dậy, chắp tay cười:

– Thiện tai thiện tai, đây đúng là đảo Vô Song rồi.

– Đảo Vô Song? – Nhạc Chi Dương bật cười: – Khẩu khí lớn thật.

– Ngươi thì biết cái rắm gì? – Minh Đấu cười lạnh nói: – Năm ấy Thích Ấn Thần tự hào “Thiên Hạ Đệ Nhất Nhân, Thế Gian Vô Song Đạo”, đánh khắp Trung Thổ không địch thủ. Về sau không biết từ đâu xuất hiện một vị đạo sĩ lợi hại, sau trận chiến giữa hai người xảy ra, Thích Ấn Thần sụp đổ oai phong, rời bỏ Trung Thổ, sáng lập nên một dòng phái ở đảo Linh Ngao. Tương truyền nửa đời sau của ông ấy sống trong sầu muộn u uất, suốt ngày mò mẫm tìm ra phương cách đánh bại vị đạo sĩ kia, mãi cho đến cuối đời mới thành công, cho nên gọi tên hòn đảo này là đảo Vô Song. Đảo và Đạo đọc trài trại như nhau, chính là Thích Ấn Thần tự phụ Vô Song Chi Đạo, đã tìm ra cách thức khắc chế đạo sĩ.

Tịch Ứng Chân đột ngột lên tiếng:

– Minh tôn chủ, ông nói vị đạo sĩ nọ tên độc một chữ “Linh” à?

Minh Đấu gật đầu đáp:

– Chính là Linh đạo nhân, ông ta có một viên Linh Đạo Thạch Ngư, tương truyền rằng bên trong có ẩn chứa vô thượng thần công, sau đó trải qua mấy bận lưu truyền, giờ đây chẳng biết đã đi đâu về đâu nữa. Trên giang hồ có lời đồn, lúc Chu Nguyên Chương công phá Bình Giang thì viên Thạch Ngư nọ từng xuất hiện một lần. Tịch chân nhân, ông và tên họ Chu ấy giao tình không ít, liệu có từng nghe nói qua về tin tức này không?

– Có nghe loáng thoáng. – Tịch Ứng Chân hờ hững đáp: – Khi ấy Trương Sĩ Thành vừa bị dẹp xong, lòng người bất an, tiếng đồn cũng lắm.

Minh Đấu hừ một tiếng, cười lạnh:

– Tịch đạo trưởng cần gì lấp liếm, cái thứ ấy đang nằm trong tay Chu Nguyên Chương!

Tịch Ứng Chân nghe thế chỉ cười trừ, chả buồn giải thích. Trái tim của Nhạc Chi Dương lúc này đang đập dồn thình thịch, ngước nhìn hòn đảo trước mặt, đầu tưởng tượng về trận chiến kinh thiên động địa của Thích Ấn Thần và Linh Đạo Nhân năm xưa, phút chốc thần tình ngơ ngẩn đến quên mất bản thân nơi đâu.

Càng đến gần đảo, xung quanh càng lởm chởm đá ngầm, tảng nào tảng nấy đều cao bằng mấy người gộp lại, ở giữa thì thủy đạo chảy dọc ngang, uốn lượn lòng vòng, con thuyền nhỏ tiến vào nơi đó, chỉ thấy đá lớn che lấp bầu trời, không gian nhập nhoạng tăm tối, hai bên bờ vách cao sừng sửng, cái ngã cái nghiêng giống hệt răng nanh của một loài thú lớn như muốn xông đến gần.



Trong thủy đạo hết sức tĩnh mịch, chỉ có tiếng sóng xô vào vách đá phát ra âm thanh rào rạt, lúc thì như tiếng rắn nhả độc, khi lại như muôn quỷ thều thào, bầu không khí bí hiểm bao trùm khắp bốn phía, khiến cho tinh thần người ta bị tác động, sinh ra cảm giác thấp thỏm.

Thuyền lướt đi chừng nửa đường, xung quanh chợt trở nên tối sầm, những tiếng ri rỉ ra rả càng lúc càng phát ra dồn dập hơn, tựa như đang thì thầm rót vào lỗ tai, thôi thúc người ta chìm vào giấc ngủ. Cũng không biết là do quá mỏi mệt hay vì nguyên nhân nào khác, Nhạc Chi Dương cảm thấy mơ mơ hồ hồ, thân thể như bị nghìn cân đè nặng, chỉ muốn lăn ra sàn thuyền ngủ vùi một giấc.

Cơn buồn ngủ vừa trỗi dậy, chân khí trong thân thể Nhạc Chi Dương liền phản ứng ngay, tùy theo âm thanh lạ lùng đang vang vọng bên tai, chân khí ấy luồn sang đông, lách sang tây, khi thì nhanh như chớp giật, lúc lại chậm như rắn trườn. Gã đột nhiên tỉnh táo lại, quay đầu nhìn bốn phía, chỉ thấy một màu đen kịt âm u đến sợ, đây nào phải khung cảnh trần gian mà ngược lại như chốn âm tào địa phủ thì đúng hơn. Chợt đâu, gã rùng mình một cái, trong lòng nảy ra thắc mắc: “Tại sao thủy đạo này lại dài như vậy, chiếc thuyền đi cũng đã lâu mà mãi vẫn ko thấy điểm kết thúc?”

Bốn bề yên tĩnh đến kỳ lạ, Nhạc Chi Dương đưa mắt nhìn sang, Diệp Linh Tô lúc này hai tay đang ôm gối, đôi mắt khép hờ, hai hàng mi dày khẽ lay động, bờ má trắng phao nhuộm đẫm ráng chiều, chóp mũi thoáng phập phồng thở ra từng làn hơi sâu và mỏng, trong đó ẩn ước hương thơm ngạt ngào mê đắm.

Nhạc Chi Dương càng thêm hoảng hốt, đưa mắt nhìn tiếp, chỉ thấy Tịch Ứng Chân đang xếp bằng ngồi thẳng, hai mắt nửa nhắm nửa mở, lộ ra vẻ đờ đẫn. Nhạc Chi Dương cảm giác không ổn, đang định mở miệng hét lên, nhưng không hiểu vì sao lời vừa lên đến cổ họng thì cơ thể rã rời, một chữ cũng không buồn nói nữa.

Lại nhìn sang Minh Đấu và Xung đại sư, bọn họ cũng rơi vào tình cảnh tương tự. Xung đại sư vô cùng kỳ lạ, hai mắt rõ ràng mở to nhưng lại không hề có chút thần thái, cứ ngơ ngác nhìn về phía trước, gương mặt tuấn tú nom hệt như một chiếc mặt nạ được tạc từ ngọc trắng, bóng râm từ những mô đá lướt qua gương mặt của y trông rùng rợn đến mức khiến cho người ta phải sởn gai ốc.

Nhạc Chi Dương càng nhìn càng thấy kỳ quái, thoảng như đang rơi vào một cơn ác mộng không hồi kết, rõ ràng là trông thấy những người khác ở trước mặt, giơ tay ra là có thể chạm đến nhưng chẳng hiểu vì sao chân không thể nhấc, tay không thể vương, duy chỉ có luồng chân khí trong cơ thể là đang lưu chuyển theo âm thanh rỉ rả kia, lúc lên lúc xuống, thoắt nhanh thoắt chậm.

Gã kèn cựa cùng cơn buồn ngủ, hận không thể chết đi cho rồi, nhưng với chút ý chí còn sót lại cùng luồng chân khí để mặc cho âm thanh kỳ lạ kia dẫn dắt, trên chạy đến huyệt Bách Hội, dưới chảy xuống huyệt Dũng Tuyền, đi qua năm bảy vòng chu thiên, cơn buồn ngủ mới dần dần suy giảm. Không khí trong lồng ngực gã chuyển động, càng tích càng dày như muốn bung ra khỏi cơ thể.

Đột nhiên, Nhạc Chi Dương ngẩng đầu lên trời thét dài một tiếng, tiếng thét bị những mỏm đá ngầm cản trở làm dội về những tiếng ngân vang vọng. Âm thanh ra rả kia vì thế có chút suy yếu đi, Nhạc Chi Dương tức thì như trút bỏ gánh nặng, bất ngờ có thể cử động trở lại.

Bốn người kia như vừa choàng tỉnh mộng, hai mắt mở to, vẻ mặt ngẩn ngơ. Tịch Ứng Chân nhìn xung quanh, buột miệng hỏi:

– Chúng ta đi vào được bao lâu rồi?

Nhạc Chi Dương vội đáp:

– Đi cả nửa ngày rồi, thế nhưng còn chưa cập bờ.

– Nói xằng…

Minh Đấu đang định mắng gã thì Xung đại sư cản lại, bảo:

– Minh huynh không nhận ra sao? Vừa rồi chúng ta đã bị mắc bẫy.

Minh Đấu còn đang sửng người, Xung đại sư chợt xé bỏ hai mảnh tăng bào, vò lại rồi nhét kín lỗ tai. Tịch Ứng Chân cũng làm theo tương tự. Hai người chia nhau nắm lấy mái chèo, cố sức lái thuyền tiến về phía trước. Thủy đạo vẫn ngoằn ngoèo như cũ, đôi khi đằng trước lại xuất hiện lối rẽ. Hai người loay hoay xoay chuyển, một lúc sau chợt thấy phía trước hé ra chút ánh sáng, vội hè nhau hướng thuyền về nơi ấy, tức thì lại đổ trở ra biển lớn.

– Ôi! – Diệp Linh Tô kêu lên: – Sao lại trở ra thế này?

– Trở ra được là còn may đấy! – Tịch Ứng Chân ném bỏ mảnh nhét tai, thở hắt ra một hơi dài. – Nếu ở lại trong thủy đạo đó, sợ rằng cả đời cũng không ra ngoài được đâu.

Xung đại sư cũng buông mái chèo xuống, liếc mắt nhìn Nhạc Chi Dương, chợt mỉm cười nói:

– Lão đệ bản lĩnh thật, bốn người chúng ta đều bị mê man, chỉ trừ mỗi ngươi là tỉnh táo vô sự.

Nhạc Chi Dương cũng lấy làm lạ, tạm thời chẳng biết đáp trả thế nào. Minh Đấu không kềm được hét lên:

– Xung đại sư, ông úp úp mở mở cái gì thế, sao ta nghe không hiểu?

Xung đại sư lắc đầu thở dài:

– Thủy đạo này trông có vẻ bình thường, nhưng thật ra là một mê cung. Nhưng nếu là mê cung thì cũng không có gì đáng nói, điều đáng sợ chính là âm thanh trong thủy đạo, nghe qua thì nhỏ xíu khó phân biệt nhưng vô hình trung lại làm tinh thần bị mê hoặc. Bần tăng nhất thời không nhận ra, lại vì đang chèo thuyền, cho nên mới bị rơi vào giấc ngủ mất một lúc, nếu không có tiếng hét của Nhạc lão đệ lay tỉnh, chỉ sợ cả đời này bị nhốt trong chốn thủy đạo, vĩnh viễn không có lối ra.

Những người khác nghe xong, không ai là không giật mình. Nhạc Chi Dương bấy giờ mới hiểu ra, nếu như mọi người ngủ mê là vì âm thanh trong thủy đạo, còn bản thân không bị trúng chiêu, đấy hoàn toàn là do công lao của Linh Phi Kinh cả. Gã đã luyện đến cảnh giới Địa Lại, chân khí tùy theo âm thanh mà chuyển động, vì thế mới giữ lại được chút tỉnh táo cho riêng mình.

Nghĩ đến đây, gã lại nảy sinh thắc mắc, tiếng ra rả ấy trong thủy đạo rốt cuộc từ đâu mà ra, là do thiên nhiên tạo tác hay bởi bàn tay con người nhúng vào? Nếu là bàn tay con người, thì hẳn không phải tác phẩm của Thích Ấn Thần thì cũng là thần thông của Linh đạo nhân.

Chợt, gã nghe Tịch Ứng Chân nói:

– Trận đồ này quả là lợi hại, mê cung hay âm thanh lạ kia tạm không nói tới, nhưng vì người bình thường lênh đênh trên biển đã lâu, đến được hòn đảo này hay có tâm lý nôn nóng muốn lên bờ, tất nhiên sẽ không lưu tâm đến đá ngầm. Tinh thần một khi lơ đễnh, những thứ tà đạo bên ngoài sẽ như nước rỏ xuyên đá, âm thầm thâm nhập vào trong trí óc. Đại hòa thượng nhà ngươi thiền tâm không vững nên mới bị quẫy nhiễu, còn bần đạo đương lúc luyện khí mông lung nên cũng bị sa vào bố trận. Thích Ấn Thần tạo ra cơ quan như thế không hổ năm xưa là một bậc kỳ nhân.

Minh Đấu sốt ruột hỏi:

– Trận địa này lợi hại như vậy, Trúc Nhân Phong và Thích Vương Tôn làm sao mà vào được?

Xung đại sư nói:

– Bọn họ đến hay chưa còn khó nói, nhưng cho dù có đến nơi này cũng chưa chắc vượt qua được mê trận đâu.

Diệp Linh Tô khẽ nhíu mày nhìn lên đảo, nói:

– Chúng ta vẫn phải lên đảo sao?

Xung đại sư cười bảo:

– Đến núi vàng mà về tay không coi sao được? Trận đồ này chỉ đáng sợ khi không biết thôi, một khi nắm rõ lợi hại tự nhiên có thể dễ dàng vượt qua.

Nhạc Chi Dương chớp mắt vỗ tay cười:

– Ta biết rồi, chúng ta hãy đi qua bằng cách bước lên trên những mô đá ngầm.

Xung đại sư mỉm cười:

– Nhạc lão đệ nhạy bén cơ trí, quả là một người thông minh.

Mọi người ngẩng đầu quan sát, đá ngầm dẫu cao lớn nhưng cũng không làm khó được năm người, ai nấy đều lập tức tự xé lấy mảnh áo bịt chặt lỗ tai, kế đó lái chiếc thuyền nhỏ đến bên dưới một mỏm đá. Nhạc Chi Dương cúi đầu nhìn xuống, thông qua làn nước biển trong vắt, có thể được thấy vô số kẽ nứt chi chít nằm dưới thân đá ngầm, cái lớn cái nhỏ, nối nhau hàng hoạt, nước biển xô vào kẽ nứt làm phát ra âm thanh kỳ lạ.

Nhìn kỹ hơn, những kẽ nứt này quá mức ngay ngắn, không giống như bị nước biển ăn mòn mà thành. Còn nếu nói do sức người tạc ra thì thật khó bề tin nổi, gần như là phải đục khoét dưới nước, nào phải chuyện một sớm một chiều có thể hoàn tất, chưa kể đến ngàn vạn khe rỗng phát ra âm thanh thôi miên nói trên, sự kỳ diệu trong âm luật của nó hầu như đã cận kề với đạo trời.

Lúc này không chỉ Nhạc Chi Dương kinh ngạc, những người khác đều rút lại sự khinh địch, không dám xem nhẹ chủ nhân trên hòn đảo này nữa.

Năm người trèo lên vách đá, liếc mắt nhìn xuống, chỉ thấy dưới chân đá nham xen kẽ, ngàn lần vặn xoắn. Xung đại sư miên man suy nghĩ, chợt quay lại hỏi:

– Tịch chân nhân, ngài tinh thông dịch số âm dương, dám hỏi mê cung này là do trời đất tạo ra hay có người sắp đặt?

Tịch Ứng Chân quan sát một lúc rồi nói:

– Bảy phần do trời sinh, ba phần nhờ sức người, Thích Ấn Thần quyết định cho đặt mộ phần mình ở nơi đây thật ra cũng có lý do của nó.

Xung đại sư mỉm cười bảo:

– Xin được nghe tường tận!

Tịch Ứng Chân liền dẫn giải:

– Cơn gió lạ của hòn đảo này, dưới thông linh căn đáy bể, trên ứng với sao Liêm Trinh thuộc chòm Bắc Đẩu, hơi nước tràn trề, tứ bề gió lớn, thật là nơi hội tụ phong thủy. Nhưng dẫu có là vậy cũng chỉ là một nơi núi hoang đảo vắng, linh khí thời tụ thời tán, thế nhưng ngoài cảnh sắc tuyệt diệu ra, xung quanh nơi đây còn sinh ra những mỏm đá ngầm khổng lồ, được núi vây biển ấp, tích nước trữ gió, hệt như rồng biển ôm trăng, khiến cho muôn vạn linh khí dồn cả vào trong đảo. Ngươi nhìn cỏ cây trên đảo mà xem, thực vật xanh mướt um tùm, sức sống mãnh liệt, nếu là một hòn đảo hoang bình thường liệu có cảnh tượng như thế này chăng?

Mọi người đứng trên mô đá nghe đến say sưa, chăm chú nhìn về đỉnh núi đằng trước, trong lòng nảy sinh cảm giác tôn kính. Xung đại sư chấp tay cười:

– Tịch chân nhân không hổ danh là đế sư của Đại Minh, kiến thức quả nhiên cao minh, vậy theo ngài thấy, liệu nơi đây có phải là long mạch của Đông Đảo hay không?

Diệp Linh Tô biến sắc, tức giận quát:

– Con lừa trọc, ta đoán ra rồi, thì ra ngươi đào mộ trộm báu là giả, cắt đứt long mạch của Đông Đảo ta mới là thật phải không?

Xung đại sư mỉm cười không đáp, Tịch Ứng Chân lại lắc đầu bảo:

– Phong thủy trên biển cả khác với đất liền, Trung Thổ muôn non nghìn núi trập trùng, khí mạch chạy dài sâu xa, long mạch hướng về đâu, đế vương xuất hiện nơi đó. Còn hòn đảo này tuy có khí thế rồng biển mạnh mẽ ngút trời, tiếc thay chỉ là một con rồng đơn độc thăng thiên, một tay vỗ chẳng thành tiếng, bốn bề lại là biển cả điệp trùng, nước biển là vật lưu động, linh hoạt thì có thừa nhưng lại thiếu bề vững chãi. Vì thế đời đời người Đông Đảo vừa chẳng có cơ hội làm đế vương vừa thiếu hụt khí chất đế vương, hoặc là tuy có tài năng của đế vương nhưng lại không có ý chí của đế vương.

Diệp Linh Tô nghe đến đây liền lặng lẽ nhớ lại, mấy chục năm qua Đông Đảo tranh hùng thiên hạ, người chết vô số, kết quả cuối cùng bại dưới tay Chu Nguyên Chương, chính là ứng với câu “Vừa chẳng có cơ hội làm đế vương vừa thiếu hụt khí chất đế vương”, thế còn hai câu “Tài năng đế vương” và “Ý chí đế vương” thì chưa có dịp kiểm chứng.

Xung đại sư chăm chú nhìn ngọn núi, trầm mặc hồi lâu bất chợt cười bảo:

– Chân nhân có kiến giải độc đáo, tiếc là thuật phong thủy trước nay không căn không cứ, đạo trời vốn mênh mông vô tận, sao có thể tỏ tường hết được? Thời vận cũng như nước biển, càng là vật lưu động, chỉ cần truy ra căn nguyên, không hẳn là không thể biết được thiên cơ. Hà huống chi, đời người trăm năm rồi cũng có lúc thành xương trắng, đã có cùng một kết thúc là cái chết, thay vì chết trong im lìm lặng lẽ, thôi thì chết sao cho oanh oanh liệt liệt; kể đến phần thắng bại, thắng thì tất nhiên đáng mừng, mà có bại cũng không việc gì hối tiếc.

Tịch Ứng Chân nghe xong phải lắc đầu:

– Đại hòa thượng, ngươi thân là đệ tử thiền môn, lại không thông thế thái, chấp nhặt chuyện trần tục.

Xung đại sư mỉm cười:

– Tịch chân nhân thân là đệ tử Huyền Môn, chẳng phải cũng không buông bỏ được sự đời hay sao? Cửa Thiền vốn linh động không giới hạn, chỉ cần tâm tính sáng ngời, ăn uống hành động đều hợp với đại đạo, những nhu cầu cơ bản của con người đều không nằm ngoài Thiền cơ. Tịch chân nhân áp dụng Đạo pháp vào đời, có thể phù trợ họ Chu xưng đế, bần tăng đem Phật pháp vào trần tục, không hẳn là không trợ giúp Mông Nguyên phục quốc được. Nếu như sức lực yếu kém, bị sa chân vào lưới trần, thì cũng là do bần tăng tự làm tự chịu; còn nếu như lực đạo đủ đầy, lấy chinh phạt làm tu hành, hóa chiến trường thành Đạo trường, lẽ nào không thể vừa đạt được thành tựu, vừa lãnh hội được đạo lý ư?

Tịch Ứng Chân tạm thời cứng họng, dẫu cho ông có trăm nghìn đạo lý, nhưng phò tá Chu Nguyên Chương vẫn là chuyện đã xảy ra. Cùng là người xuất gia, nếu ông phê phán Xung đại sư thì bản thân cũng khó tránh nỗi hiềm vừa ăn cắp vừa la làng.

Xung đại sư nhìn ra tâm lý đó của ông bèn cười ha hả. Y bước đi trên mô đá ngầm, chân không chạm đất, theo hướng đảo mà tiến lên. Minh Đấu cũng gấp rút theo sau, Nhạc Chi Dương vội giục:

– Nhanh lên, đừng để cho bọn chúng đi trước.

Tịch Ứng Chân vừa bị nói trúng tim đen, trong lòng chán ngán, thở dài nói:

– Nhóc con, chúng ta lên đảo rồi thì có thể làm gì chứ?

Nhạc Chi Dương còn đang chưng hửng, Diệp Linh Tô đã xen vào:

– Nếu chúng ta không lên đảo, mấy tên này chẳng phải sẽ trục lợi thành công hay sao?

Nhạc Chi Dương cũng tán đồng:

– Phải đó, nếu như trong cổ mộ Ấn Thần thật sự có võ công lợi hại, rơi vào tay tên hòa thượng này thì sẽ như hổ mọc thêm cánh.

Tịch Ứng Chân trải qua chiến tranh loạn lạc, sớm đã mỏi mệt với việc tranh đấu, nghe xong những câu nói của Xung đại sư, ngẫm lại công lao sự nghiệp trong đời, đa phần chỉ là chinh phạt chém giết, kẻ xảo người dại, hầu như đã đi ngược lại với tôn chỉ “Thanh Tịnh Vô Vi” của Đạo gia. Vì vậy cõi lòng ông trở nên nguội lạnh, nhất thời chỉ muốn lánh xa mọi chuyện. Nhưng nghe Nhạc Chi Dương nói xong, ông thầm nghĩ Xung đại sư ấp ủ chuyện xấu, bản lĩnh càng cao thì mầm họa càng lớn, nếu võ công Thích Ấn Thần lọt vào tay y, hậu quả thật khôn lường.

Nghĩ đến đây, Tịch Ứng Chân vực dậy tinh thần, dẫn theo hai người cùng tiến lên. Năm người vừa rời khỏi đám đá ngầm được mấy bước, chợt nghe thấy phía trước vọng đến tiếng người. Tiến lên quan sát, bãi đất trống ở đằng xa có hai kẻ đang đứng xoay lưng lại ngó dáo dát xung quanh.

Hai kẻ nọ nghe thấy tiếng động liền song song quay đầu lại. Thích Vương Tôn trông thấy năm người, giật mình hét lên:

– Ối trời ơi, các người sao có thể vượt qua được Hải Âm Mộng Điệp Trận thế?

Xung đại sư cười hỏi:

– Thì ra thạch trận ấy gọi là Hải Âm Mộng Điệp Trận à? Nom dáng vẻ của Thích tiên sinh thì hình như bọn ta đi qua được trận đồ này khiến cho ông có chút thất vọng nhỉ?

Thích Vương Tôn thừ người ra giây lát rồi cười xòa:

– Làm gì có! Đại sư qua được thạch trận, ta vui mừng còn không kịp đấy chứ!

Xung đại sư liếc mắt nhìn y, lại quay sang Trúc Nhân Phong cười bảo:

– Trúc lão đệ thật là thông minh lanh lợi, cướp thuyền bỏ chạy không nói, còn mang cả Trúc tiên sinh theo cùng. Bần tăng mà kém may mắn một chút chỉ sợ đã không gặp được hai vị rồi.

Y nói nói cười cười vẻ hết sức khách sáo, Trúc Nhân Phong lại cảm giác câu nào câu nấy xoáy thẳng vào tim, da mặt hắn co giật rồi cười gượng:

– Có câu rằng “Vợ chồng vốn là chim liền cánh, gặp nạn chim nào nấy tự bay”(*), vợ chồng còn như thế, đại hòa thượng cớ chi phải đặt nặng? Ta mà không đi, há chẳng lẽ cùng ông chết chìm chết cháy hay sao?

(ND chú: nguyên văn là “Phu Thê Bổn Thị Đồng Lâm Điểu, Đại Nan Lai Thì Các Tự Phi”)

Xung đại sư xua tay bảo:

– Thôi việc này tạm thời không nhắc nữa. Thích tiên sinh, ông an nhiên qua được thạch trận, nghĩ chắc là ông cũng biết cổng vào mộ huyệt ở đâu nhỉ?!

– Hổ thẹn, hổ thẹn! – Thích Vương Tôn mặt mày khổ sở: – Lúc cha ta qua đời chỉ nói cho ta biết vị trí hòn đảo cũng như cách thức đi vào đảo, ý muốn ta đến nơi đây làm lễ cúng bái, căn bản không nghĩ đến việc ta sẽ vào trong mộ phần. Ầy dà, nói thật, không có đại sư chỉ bảo, ta còn không biết đến mớ bảo bối chứa bên trong ấy đấy.

Nhắc đến hai từ “bảo bối”, hơi thở của hắn trở nên dồn dập, hai mắt lóe lên vẻ tham lam.

Diệp Linh Tô thấy hắn lố lăng ra mặt như thế, không kềm được tức giận, mắng to:

– Thích Vương Tôn, trên trần gian này còn có loại con cháu dẫn kẻ lạ đến đào mộ tổ tông như ngươi sao?

Thích Vương Tôn mặt đỏ tía tai, cố gân cổ lên cãi:

– Ta đào mồ mả tổ tiên nhà ta, can gì đến ngươi?

Diệp Linh Tô chẳng còn lời nào để đáp lại, nghĩ bụng: “Phải rồi, hắn là người nhà họ Thích, tự đào mồ mả tổ tiên nhà hắn thì có can hệ gì tới ta đâu?”

Tịch Ứng Chân cũng lắc đầu ngao ngán, thở dài:

– Thích Vương Tôn, ngươi ắt hẳn là nghe lời dụ dỗ của tên hòa thượng này cho nên ma xui quỷ khiến mới đi đào mộ tổ tiên mình lên.

– Lão mũi trâu như ngươi hiểu cái rắm gì! – Thích Vương Tôn càng tỏ ra hung hăng: – Cha ta đặt tên cho ta là Vương Tôn, ngươi xem, ta có chút gì giống với bộ dáng của vương tôn hay không? Ta sống mốc meo cả nửa đời, chịu cùng chịu cực cả nửa đời, tổ tiên thử hỏi có phù hộ cho ta lần nào hay chưa? Xung đại sư nói có lý, tổ tiên nếu như có linh thiêng trên trời, nhất định sẽ phù hộ cho ta phát tài, mà nếu như ta phát tài rồi, còn cần gì phải đi đào mộ phần của họ lên nữa?

Kẻ này chẳng những tham lam mà còn dại dột, phản bác cho đã đời xong hắn còn đem cả lời xúi giục của Xung đại sư nói ra tuốt tuột. Dạy người khác tự đào mộ tổ tiên vốn chẳng phải là chuyện vẻ vang gì, Xung đại sư tuy da mặt dày nhưng cũng không tránh khỏi nóng ran, bèn ho khan hai tiếng bảo:

– Thích tiên sinh, mấy chuyện này tự bản thân hiểu là được rồi, nói nhiều vô ích với kẻ khác làm gì!

Thích Vương Tôn mặt mày hăm hở, lia lịa gật đầu với Xung đại sư:

– Đúng, đúng, vẫn là Xung đại sư cao minh, giờ nói cái gì cũng bằng thừa, đợi bảo bối vào tay mới chắc chắn.

Mọi người thấy bộ dạng hắn như vậy, thảy đều dở khóc dở cười, không nghĩ trên đời lại có kẻ đần đến mức đi tin những lời xằng bậy của Xung đại sư. Trước tiên khoan nói đến trong mộ huyệt có bảo bối hay không, cho dù là có thật thì với một Thích Vương Tôn yếu ớt hèn kém thế này, sau khi lấy xong bảo bối cũng đừng mong giữ lại được.

Tịch Ứng Chân bản tính đôn hậu, vốn muốn khuyên nhủ kẻ này biết sai mà quay đầu, nhưng thấy hắn tỏ vẻ cố chấp, liền không nhịn được chán nản, ông ngẫm nghĩ giây lát lại hỏi:

– Thích Vương Tôn, ngươi xuất thân con nhà võ, sao lại không học võ công?

Thích Vương Tôn không ngờ ông lại nhắc đến chuyện này, ngẩn ra một thoáng rồi buột miệng đáp:

– Không chỉ ta không học võ công, cả cha ta cũng không biết võ. Nghe bảo, vì ông nội chết sớm nên một chiêu võ công nhà họ Thích cũng không truyền lại.

Tịch Ứng Chân thầm thở dài, trong dạ không khỏi tiếc nuối, nghĩ lại Thích Ấn Thần, Thích Thiên Phong năm xưa oai thế bao nhiêu, nào ngờ được đến hôm nay, con cháu của họ lại rơi vào tình cảnh như vậy. Chợt nghe Xung đại sư cười bảo:

– Tịch chân nhân, ngài có biết ông nội của hắn là Thích Hưu Minh vì sao mà chết không?

– Vì sao? – Tịch Ứng Chân hỏi.

– Kỳ Ngao Đầu Luận Kiếm năm ấy, Thích Hưu Minh bại dưới tay Vân Đình, con trai Vân Thù, nên đánh mất ngôi vị đảo chủ. Thích Hưu Minh trong cơn nóng giận, đã dẫn vợ mọn con thơ rời khỏi Đông Đảo. Vì một ngày quay lại giành giật vinh quanh, ông ta cố gắng luyện tập một môn nội công thượng thừa, thế nhưng trong kỳ luận kiếm ông ta đã bị thương sẵn, nội thương chưa khỏi mà cố luyện thần công dẫn đến tẩu hỏa nhập ma rồi lăn đùng ra chết tốt. Lúc đó ông ta mới cưới vợ chưa lâu, con trai Thích Đại Phương còn chưa tròn ba tuổi. Thích Hưu Minh trước khi chết có gởi gắm vợ con lại cho thầy của ta. Thầy ta liền sắp xếp cho bọn họ ở lại bên cạnh chùa, âm thầm bảo vệ. Vợ của Thích Hưu Minh vì nông cạn ngây ngô, sợ con trai tập võ cậy tài, giẫm lên vết xe đổ của chồng thị, cho nên đã thiêu hủy hết các bí tịch tổ truyền, dẫn đến các đời sau nhà họ Thích chẳng ai còn biết võ công nữa.

Tịch Ứng Chân nhìn sang Thích Vương Tôn, trong lòng ngổn ngang cảm xúc, gật đầu nói:

– Hóa ra là như thế, thảo nào hắn lại rơi vào tay ngươi rồi trở thành một quân cờ đối phó Đông Đảo.

– Chân nhân lại nói sai rồi. – Xung đại sư mỉm cười: – Bần tăng làm thế chẳng qua là thay trời hành đạo. Nhớ lại năm xưa Thiên Cơ Cung gặp kiếp nạn, hai nhà Hoa – Vân không nơi tá túc, may thay được vợ chồng Thích Thiên Phong thu nhận giúp đỡ mới có thể thoát khỏi sự truy đuổi của Đại Nguyên. Nào hay vật đổi sao dời, hai nhà này lại mưu đồ “chim cưu chiếm tổ chim khách”, ép cho Thích gia phải rời bỏ Đông Đảo, nhà họ Vân thoắt cái trở mình thành chủ nhân đảo Linh Ngao, hành vi này cực kỳ vô liêm sỉ, nếu không đòi lại lẽ công bằng thử hỏi thiên lý còn hay không?

Tịch Ứng Chân còn chưa đáp trả, Diệp Linh Tô sớm đã nghe không lọt tai, lớn giọng nói:

– Lừa trọc thối, ngươi cứ luôn mồm thay trời hành đạo, thật ra đều vì dục vọng của riêng mình, nếu ngươi thật sự nghĩ cho nhà họ Thích, tại sao lại xúi giục Thích Vương Tôn đi đào mộ phần tổ tiên?

Xung đại sư cười bảo:

– Con nhãi ranh như ngươi thì hiểu cái gì? Người chết rồi sẽ vào vòng luân hồi, thứ còn sót lại chỉ là xác thịt, cho nên đa số đệ tử Phật môn đều chọn hỏa táng để không tồn lại thân xác. Người Mông Cổ chúng ta sau khi chết, được chôn vào lòng đất, muôn ngựa giẫm đạp lên cũng không để lại bất cứ mộ phần nào. Còn người Hán xây dựng bia mộ chỉ làm hao người tốn của, bảo vật theo đó cũng mai một thất lạc, càng thêm lãng phí lớn lao, thay vì để chúng bầu bạn với người chết, thôi thì giao cho người sống thụ hưởng còn hơn. Đạo lý này nói ra thì đơn giản nhưng để thực hiện thì không dễ dàng gì, cũng chỉ có bậc trí thức như Thích tiên sinh đây mới có thể phá bỏ hủ tục, làm những việc phi thường.

– Đúng, đúng! – Thích Vương Tôn mặt mày hớn hở, gật đầu lia lịa, nhìn Xung đại sư bằng ánh mắt thắm thiết tri kỷ.

Tịch Ứng Chân bất giác lắc đầu cười khổ:

– Đại hòa thượng, bất kể chuyện oái oăm gì rơi vào miệng ngươi đều biến thành lý lẽ xác đáng cả.

– Đạo trưởng nói phải. – Nhạc Chi Dương không đợi cho Xung đại sư kịp lên tiếng, cười khì khì xen vào: – Cũng giống như việc trồng hoa vậy, vun bón vào rõ là cứt đái, nhưng lớn lên lại là hoa tươi. Bất kể cái thứ hôi thối thế nào qua miệng vị đại sư đây cũng có thể nở ra đóa hoa thơm ngào ngạt cả.

– Nhạc lão đệ tưởng tượng hơi quá rồi! – Xung đại sư không giận không vội, điềm tĩnh đáp lời: – Đạo Phật ta xem mỹ nữ như xương khô, bần tăng lấy cứt đái hóa tiên hoa, xấu đẹp tựa nhau, thơm thối như một! Phật Pháp vốn diệu kỳ, không gì so sánh được.

Nhạc Chi Dương vừa tức vừa buồn cười, bảo:

– Hóa ra cứt đái cũng là Phật Pháp, vậy xem ra làm chó cũng có thể thành Phật rồi.

Trong lời của gã có ý ngầm mắng Xung đại sư là chó. Xung đại sư dường như không nhận ra, vẫn cười khì khì đáp:

– Phật dạy chúng sinh bình đẳng, trong vòng lục đạo thảy đều có thể thành Phật, chó thuộc đạo súc sinh, thăng thiên thành Phật thì có gì là lạ?

Nhạc Chi Dương dẫu cho mồm mép lanh lợi, đến nước này cũng không còn gì nói được, đành chép miệng:

– Hòa thượng giỏi lắm, xem như ngươi lợi hại, so về mặt vô sỉ hạ lưu, Nhạc Chi Dương ta xin chào thua.

Xung đại sư cười khà khà, ánh mắt lướt qua mọi người, chắp tay bảo:

– Mọi người đi đường đã mệt mỏi, hay là tìm một nơi để nghỉ ngơi lấy sức, đợi đến khi sinh lực dồi dào mới đi tìm cửa vào mộ huyệt vậy.

Trải qua một phen sóng gió, mọi người đều cảm thấy đói khát. Trên đảo rừng xanh ngun ngút, khói tỏa mịt mờ, suối trong văn vắt thấy rõ cả đá bên dưới, thi thoảng lại có chim bay thú chạy ẩn hiện xung quanh. Minh Đấu dùng một phiến đá đánh chết một con sơn dương, nhóm một đống lửa ven suối rồi nướng thịt dê đến lúc mỡ tươm vàng rượm, hương bay ngào ngạt.

Đám người Xung đại sư xúm quanh đống lửa để chia thịt, trong khi Tịch Ứng Chân thì đang xếp bằng ngồi một bên. Xung đại sư không thấy Nhạc Chi Dương và Diệp Linh Tô đâu, bèn hỏi:

– Tịch Chân Nhân, hai người bạn nhỏ đi đằng nào rồi mà để tiền bối lại đây chịu đói, thật là lớp trẻ không phải phép mà!

Tịch Ứng Chân từ tốn đáp:

– Đại hòa thượng lại gây xích mích chia rẽ rồi, tiếc là ngược lại tụi nó thấy ta già cả nên để ta ở lại đây chờ thưởng thức món ngon sắp sẵn đấy.

Chợt nghe tiếng chim xáo xác phía đằng xa lẫn cùng tiếng đập cánh phạch phạch, chẳng bao lâu sau, chỉ thấy Diệp Linh Tô đủng đa đủng đỉnh, xách theo một cặp gà bông đi ra khỏi bìa rừng. cô tiện tay ném chúng xuống đất rồi ngồi sang một bên ôm gối, ngơ ngẩn thả hồn theo dòng suối. Tịch Ứng Chân hỏi:

– Nhạc Chi Dương đâu?

– Không rõ! – Diệp Linh Tô lắc đầu: – Thống nhất với nhau, ta bắt gà, hắn nấu nướng, nhưng chớp mắt sau ta cũng không biết hắn chạy tót đi đằng nào rồi!

Vừa nói xong thì bỗng đâu Nhạc Chi Dương cười khúc khích bước ra khỏi khu rừng, nửa trên của gã cởi trần, ống quần xắn cao, hai chân dính đầy bùn đất, đầu đội mấy cọng lá sen to tướng tươi xanh mơn mởn, tay phải cầm một củ sen dài, tay trái xách nào hoa nào cỏ được gói lại trong vạt áo.

Nhạc Chi Dương đến bên khe suối, chẳng nói chẳng rằng, xắn tay giết gà nhổ lông, lại dùng các thứ vừa mang về như quả rừng, hoa cỏ, vỏ cây, củ sen… dồn vào trong bụng gà, sau đó dùng lá sen gói kín lại.

Diệp Linh Tô ở bên nhíu mày quan sát, không kềm được thắc mắc:

– Nhạc Chi Dương, ngươi bày trò gì vậy?

– Làm món Khiếu Hoa Kê(*) – Nhạc Chi Dương mỉm cười trả lời. Diệp Linh Tô xùy một tiếng: – Ai hỏi chuyện gà đâu, ta hỏi về hoa quả kìa, tạp nham đủ thứ như vậy ai biết nó có độc hay không?

(ND chú: Khiếu Hoa (Hóa) Kê hay hiểu nôm na là món gà ăn mày, một món ăn của dân cùng khổ hồi xưa với cách làm đơn giản là bọc gà trong lá sen rồi đắp đất sét lên nướng chín. Giờ đây là đặc sản của vùng Giang Tô.)

Nhạc Chi Dương vừa dùng bùn nhuyễn đắp trên bề mặt lá sen, vừa mỉm cười đáp:

– Xoắn xuýt làm gì, nếu như sợ có độc thì cô “ăn” ta là được.

Diệp Linh Tô vừa giận vừa thẹn, mặt hoa đỏ bừng, cô vỗ bộp lên mặt đá, đứng phắt dậy gắt:

– Nhạc Chi Dương, ngươi… ngươi còn nói bậy, ta đá ngươi xuống nước bây giờ.

Nhạc Chi Dương thè thè lưỡi:

– Ấy, ấy, ta không nói nữa, thịt người vừa tanh vừa hôi, làm sao ăn ngon bằng thịt gà cơ chứ…

– Ngươi còn nói! – Diệp Linh Tô giẫm giẫm chân ra vẻ muốn xông đến, Nhạc Chi Dương vội vã chạy né.

Hồi sau gã nhóm lên một đống lửa, mang con gà đã bao bọc hoàn chỉnh ra nướng trên ngọn lửa ấy, chẳng mấy chốc lớp đất khô đét lại rồi nứt toác. Nhạc Chi Dương vừa bóc tách đất sét ra, một mùi hương đậm đà lập tức lan tỏa, khiến cho ai nấy đều thèm thuồng rõ dãi.

Nhạc Chi Dương chia thịt gà làm ba phần. Diệp Linh Tô bán tín bán nghi, tay cầm lấy đùi gà cắn nhẹ một miếng, chỉ cảm thấy hương vị non tươi mềm mại, nước thịt tươm tướp, trong vị ngon ngọt còn hòa lẫn mùi thơm dìu dịu, nhai qua mấy lượt, dư vị vẫn còn quẩn quyện chưa tan.

“Khiếu hoa kê” vốn là món ăn trứ danh đất Ngô Việt, Diệp Linh Tô từ nhỏ đến lớn đã thưởng qua không ít thức ngon vật lạ, nhưng mùi vị của món gà này hết sức lạ lùng, trước nay chưa từng nếm trải. Cô liếc trộm Nhạc Chi Dương, trong lòng dấy lên một chút kinh ngạc.

Tịch Ứng Chân tuy là đạo sĩ nhưng lại không kỵ món mặn, ăn như gió giục mây vần, thoáng cái nhai sạch cả nửa con gà, vừa ăn vừa tấm tắc:

– Thằng nhóc giỏi thật! Con gà này nấu rất ngon, thịt mềm mọng nước, hương thơm nức mũi, vừa tươi vừa ngọt, dư vị ngập tràn. Ngon, Khiếu Hoa Kê ngon lắm, đầu bếp tại Trích Tinh Lâu nơi kinh thành cũng không bằng ngươi được.

Nhạc Chi Dương mỉm cười:

– Tịch đạo trưởng mà không chê, sau này ta sẽ nấu cho ông ăn mỗi ngày.

Tịch Ứng Chân quệt vết mỡ bên mép, bật cười:

– Để thằng nhóc nhà ngươi làm đầu bếp chẳng phải phí phạm tài năng hay sao? À, hương liệu bên trong bụng gà đều ở trên đảo này cả à?

– Kể cũng lạ! – Nhạc Chi Dương mỉm cười: – Trên đảo này chẳng thiếu loại hương liệu nào cả, hồi nãy ta trông thấy cũng giật mình, ở bên kia còn có một đầm nước, trong đầm có trồng hoa sen. Đây đây, nếm thử củ sen này xem, vừa giòn vừa ngọt, tươi ngon hiếm có.

Tịch Ứng Chân rửa sạch củ sen, cắn thử vài miếng, liền liên tục khen ngon. Diệp Linh Tô cũng bẻ lấy một đoạn, dùng kiếm gạt bỏ lớp bùn, từ từ nhấm nháp rồi khe khẽ gật gù.

Đám người Xung đại sư trông thấy bọn họ ăn uống ngon lành, ai cũng nuốt nước bọt ừng ực, miếng thịt dê trong tay bỗng trở nên vừa tanh vừa dai, đơn giản là khó mà nuốt trôi. Trúc Nhân Phong bỏ miếng thịt trong tay xuống, liếc liếc sang Minh Đấu, ánh nhìn không giấu vẻ trách cứ.

Minh Đấu nổi sùng:

– Mẹ nó chứ, họ Trúc kia, ngươi thô lố hai mắt nhìn ông để làm gì? Ông đây mổ dê nướng dê, chả lẽ còn làm sai sao? Muốn ăn ngon thì tự đi mà làm!

Nói rồi lão túm lấy cả xâu thịt nướng quăng ùm xuống nước.

Trúc Nhân Phong hầm hầm tức giận, đứng bật dậy quát:

– Minh Đấu, đồ chó chết chủ nhà ngươi, ở trước mặt gia gia còn muốn ra vẻ à? Gia gia ăn thịt dê là đã nể mặt nhà ngươi lắm rồi, dám chọc giận ta, ta khiến ngươi đi cà thọt bây giờ!

Minh Đấu xụ mặt xuống, trầm giọng nói:

– Hay lắm, Trúc Nhân Phong, nói mà không làm được là đồ con rùa, ta chống mắt lên xem ngươi làm sao khiến ta đi cà thọt.

Nếu như thân thể không trọng thương, Trúc Nhân Phong tuyệt không kiêng dè Minh Đấu, nhưng nếu giao đấu trong khi bị thương thì phần thắng tính ra rất thấp. Nội thương của hắn phân nửa là do Nhạc Chi Dương ban cho, nhớ đến người này, hắn không kềm được quay đầu sang trừng trừng nhìn thiếu niên, chỉ thấy gã và Diệp Linh Tô đang ngồi sóng vai cùng nhau, nam thanh nữ tú tỏa sáng ngời ngời, Trúc Nhân Phong ngoài lòng căm ghét còn sinh ra một nỗi tỵ hiềm, hận không thể lột da moi tim gã ra cho hả dạ.

Minh Đấu thấy hắn sắc mặt quái lạ bèn cười lạnh:

– Hoảng rồi à? Nếu không có gan ra tay, vậy thì hãy gọi ta hai tiếng “Ông nội” đi, ta sẽ nể mặt mũi Thiết Mộc Lê mà tha cho ngươi một lần.

Trúc Nhân Phong nổi điên, toan rướn người xông đến, nào ngờ Xung đại sư đứng dậy ngăn cản hai người lại, bảo:

– Đều là người trong nhà cả, đâu cần phải vì một con dê nướng mà tổn thương hòa khí, nếu như các người đánh nhau, khoan nói tới thắng hay bại, để kẻ địch trong thấy chẳng phải chúng sẽ cười rụng răng hay sao?

Minh Đấu liếc mắt nhìn Tịch Ứng Chân, sắc mặt càng trở nên sa sầm. Trúc Nhân Phong vẫn chằm chằm nhìn Diệp Linh Tô, nghĩ thầm trong bụng: mình thắng thì không sao, còn lỡ mà xui rủi thất bại trước mặt tiểu mỹ nhân đây, chẳng phải sẽ mất mặt lắm ư? Nghĩ đến đây, hắn hậm hực ngồi xuống, thở dài một tràng. Minh Đấu tuy cứng mồm là thế nhưng trong lòng cũng rất e ngại quyền thế của Yến Nhiên Sơn, thấy hắn nhượng bộ cũng không tiện khiêu khích thêm nữa, bèn hừ lạnh một tiếng, từ từ tiêu giảm nội lực.

Xung đại sư cúi người rửa sạch tay rồi chỉnh trang lại y phục qua làn nước trong, kế đó đứng dậy nói:

– Ăn uống no đủ rồi, chúng ta cùng đi tìm cửa vào mộ huyệt nào!

Nói rồi sải bước thật nhanh, dẫn theo đám người Minh Đấu đi về phía tòa núi.

Nhạc Chi Dương nhảy bật dậy, vội giục:

– Mau, mau đuổi theo.

Diệp Linh Tô còn chần chừ chưa quyết, Tịch Ứng Chân điềm nhiên bảo:

– Đi theo bọn chúng làm gì?

– Làm gì á? – Nhạc Chi Dương trợn mắt nhìn ông vẻ quái lạ: – Bọn chúng tìm thấy cửa vào mộ huyệt thì sao?

– Làm gì có chuyện dễ dàng thế? – Tịch Ứng Chân lắc đầu cười: – Thích Ấn Thần tinh thông thuật phong thủy, mộ phần này lưng tựa núi mặt hướng biển, hình thế mượn trời. Ngươi cũng đã từng chứng kiến qua Hải Âm Mộng Điệp Trận rồi đấy, cứ thử nghĩ mà xem, gần như trên đảo này nơi nào cũng hung hiểm như thế, muốn tìm ra cửa mộ, nói thì dễ chứ làm mới khó!

Nhạc Chi Dương thấy cũng chí lý, gãi đầu hỏi:

– Vậy hiện giờ chúng ta phải làm gì?

Tịch Ứng Chân nói:

– Trước tìm một nơi trú chân đã, sau đó từ từ nghĩ cách rời đảo.

Nhạc Chi Dương giật mình, buột miệng thốt:

– Còn võ công trong mộ thì sao?

Tịch Ứng Chân lườm gã một cái, tỏ vẻ không vui:

– Võ công cái gì chứ? Bộ ngươi thật sự muốn chui vào trong mộ người ta à?

Nhạc Chi Dương cười hề hề:

– Ta chỉ tò mò thôi mà.

Tịch Ứng Chân lắc đầu:

– Tò mò hại thân! Chúng ta đến đây chủ yếu là vì “Thiên Cơ Thần Công Đồ”, giờ sách đã nằm trong tay, những chuyện khác đừng bận tâm nhiều nữa.



Giọng điệu của ông trong mềm có cứng, nói vừa xong thì quay đầu đi ngay. Nhạc Chi Dương bất đắc dĩ, đành lè lè lưỡi, tiu nghỉu bước theo sau lưng ông, chợt nghe Diệp Linh Tô hắng giọng:

– Trứng ung, đáng đời!

Nhạc Chi Dương đưa mắt nhìn sang, thiếu nữ mặt mày lạnh tanh, chẳng chút thân thiện, đang hướng đôi mắt hạnh về nơi khác. Nhạc Chi Dương cười bảo:

– Ừ, ừ, ta là trứng ung, còn cô là trứng đặc biệt, trong trứng có tới hai lòng đỏ, Lưu A Đẩu(*) ăn vào cũng phải biến thành Gia Cát Lượng.

(ND chú: Lưu A Đẩu hay Lưu Thiện, con trai Lưu Bị, là vị hoàng đế thứ hai và cũng là cuối cùng của nhà Thục Hán dưới thời Tam quốc, được Gia Cát Lượng phò tá sau khi Lưu Bị qua đời. Thời nay, người ta thường dùng tiếng lóng A Đẩu để ám chỉ những kẻ hèn nhát, bất tài.)

Diệp Linh Tô đỏ bừng hai má, làn da trắng phao phao ửng hồng càng thêm kiều diễm. Cô tức tối “Xí” một tiếng, mắng:

– Còn thứ trứng ung to xác như ngươi á, Gia Cát Lượng mà ăn phải cũng bị biến thành heo cho xem.

Chợt thấy Nhạc Chi Dương mặt mũi tí tởn, cô mới nhận ra mình vừa thất thố, vội mím môi trừng mắt, quay phắt sang hướng khác.

Ba người tìm kiếm một lúc thì phát hiện được một hang động bên bờ biển. Trong động có một bầy nai đang ở, Nhạc Chi Dương hô hét ầm ĩ xua bầy nai đi khỏi, lại thấy bên trong ẩm thấp dơ bẩn, gã mỉm cười bảo:

– Hai vị quét dọn trong động đi, để ta ra ngoài tìm một ít cỏ khô về rải nền.

Nói rồi, gã bước ra khỏi hang, dáng vẻ lừng khừng thong thả, tay bẻ vài cọng cỏ khô vân vê chơi đùa, đi dung dăng một hồi, thấy bốn bề không có ai, gã liền dạt bụi cây chạy thẳng về phía hòn núi. Chẳng bao lâu sau đã đến nơi, Nhạc Chi Dương trèo lên trên một tàng cây lớn, gãi đầu gãi tai ngó nghiêng về phía trước.

Nhìn một hồi, chợt gã cảm thấy đầu vai nhói lên như có người vừa vỗ chưởng. Nhạc Chi Dương giật mình vội nhảy ra ba thước, suýt nữa là rớt khỏi táng cây. Gã ngoảnh đầu lại, thì ra Diệp Linh Tô đang ở phía sau lưng, mặt hoa xụ lại, ánh mắt như kết băng, lạnh lùng hỏi:

– Ngươi không phải đi hái cỏ khô sao, chạy tót lên cây làm gì vậy?

Nhạc Chi Dương vừa định thần lại, mở miệng bịa ngay:

– Ờ thì cỏ khô ít quá, ta mới trèo lên đây định bẻ mấy cành cây mang về.

Diệp Linh Tô hừ một tiếng, mắng:

– Ngươi nói dối!

Nhạc Chi Dương giả bộ ho khan hai tiếng, đánh trống lảng:

– Diệp cô nương, cô tới đây làm chi?

Diệp Linh Tô lườm gã:

– Tịch chân nhân thừa biết ngươi sẽ đi gây họa, kêu ta đến dẫn ngươi về.

Nhạc Chi Dương thở dài:

– Diệp cô nương, cô có muốn thấy bọn khốn ấy trộm được võ công của Thích Ấn Thần hay không?

Diệp Linh Tô liếc mắt nhìn gã, đáp:

– Đương nhiên là không.

Nhạc Chi Dương mừng rỡ:

– Tốt quá, chúng ta quả nhiên cùng chung một lòng.

Diệp Linh Tô thẹn đỏ mặt, gắt:

– Ăn nói quàng xiêng, ai cùng chung một lòng với nhà ngươi chứ!

– Ấy, ấy, ta lỡ lời. – Nhạc Chi Dương chữa lại: – Ý là chúng ta có cùng suy nghĩ, cho nên phải phá đám cho bọn chúng rối tung rối mù lên.

Diệp Linh Tô trừng mắt nhìn gã, ngờ vực hỏi:

– Làm sao để phá đám bọn chúng?

Nhạc Chi Dương đáp:

– Tạm thời chưa nghĩ ra, tóm lại là không để cho bọn chúng yên ổn được.

Diệp Linh Tô phì cười:

– Nói khoác không biết ngượng, dựa vào chút võ công mèo quào của ngươi, đem đi nhét kẽ răng người ta còn chưa đủ nữa là.

Nhạc Chi Dương cười đáp:

– Đại trượng phu đấu trí không đấu sức.

– Cái gì mà đại trượng phu chứ? – Diệp Linh Tô hừ lạnh: – Tiểu nhân nham hiểm thì đúng hơn.

Nhạc Chi Dương bảo:

– Cô không nghe người ta nói sao? Ác quỷ còn sợ tiểu nhân mà!

Diệp Linh Tô lấy làm lạ:

– Ai nói vậy?

Nhạc Chi Dương đáp:

– Chả ai khác, chính là Nhạc mỗ đây!

Diệp Linh Tô nguýt một tiếng, suýt thì phì cười, nhưng chả hiểu sao cõi lòng như bị sắt đè, không tài nào bật tiếng cười ra được, thế là cô đành hướng ánh mắt sang nhìn biển, mím môi không nói lời nào.

Nhạc Chi Dương trông thấy thần thái của cô như vậy, biết cô còn buồn vì thân thế phức tạp của mình, gã bất giác nghĩ thầm: “Cần phải tìm cách để cô ta vui lại mới được.”

Gã còn đang suy nghĩ, chợt nghe Diệp Linh Tô “í” một tiếng, đưa mắt nhìn về hướng vách núi, Nhạc Chi Dương quan sát theo hướng cô nhìn, lập tức sáng mắt lên, hồ hởi bảo:

– Ối chà, chẳng phải là Ma Vân đấy ư?

Cách không xa đằng trước, trên vách đá ở lưng chừng núi, một con đại ưng đang vùi đầu rung cánh, miệt mài mổ ăn một chú thỏ rừng, xem qua màu lông đúng là ưng biển Ma Vân.

Diệp Linh Tô trông thấy người bạn chim của mình, trong lòng mừng rỡ, bảo:

– Quá tốt rồi, có Ma Vân, chúng ta có thể đưa thư về đảo Linh Ngao, nhờ họ cử thuyền đến đón chúng ta.

Nói rồi, cô cong ngón tay lại đặt giữa khóe môi, vận khí đan điền, phát ra tiếng huýt sáo thật dài.

Ma Vân nghe tiếng ngẩng đầu lên, hiên ngang nhìn ngó xung quanh, đôi mắt ưng tinh tường lập tức trông thấy chủ nhân, nó hưng phấn hẳn lên, giang cánh bay vội về phía hai người. Nói thì chậm, thực tế diễn ra rất nhanh, khi ấy chợt nghe mấy tiếng “phành phạch” vang lên, trong khu rừng tùng bỗng đâu bay vụt ra một chiếc bóng trắng, nhanh như chớp lóe, va mạnh vào chú ưng biển màu xám tro. Khoảnh khắc ấy, lông vũ rụng rơi tung tóe, tiếng kêu thảm thiết ngân dài, hai chiếc bóng một trắng một xám quay cuồng hỗn loạn, nhất thời khó mà phân biệt.

Hai người trên cây trước tiên là kinh ngạc, sau đó nhận ra chiếc bóng trắng kia cũng là một con đại bàng lông trắng hơn tuyết, dũng mãnh thần tốc, xuất hiện chưa được bao lâu đã khiến cho Ma Vân phải nằm dưới móng vuốt của nó, ngoài vùng vẫy ra không cách nào chống cự lại.

Diệp Linh Tô vừa bất ngờ vừa phẫn nộ, hét vang một tiếng, nhón tay phất ra kim châm, nào ngờ kim châm vừa bay đến gần, đại bàng trắng liền thả Ma Vân ra, bay thẳng lên trời, kim châm nhấp nhá rồi lướt sượt qua móng vuốt của nó.

Ma Vân loạng choạng rớt từ trên cao xuống đất. Nhạc Chi Dương nhắm kỹ thế rơi, nhanh chóng nhảy khỏi cành đại thụ, bắt gọn chú ưng biển vào lòng bàn tay, chỉ thấy đầu nó gục xuống, cần cổ gẫy lặt lìa, đỉnh đầu lủng toang hoác phọt cả não, hóa ra đã chết tươi.

Nhạc Chi Dương còn đang kinh hãi chợt nghe Diệp Linh Tô hét to một tiếng, gã giương mắt nhìn lên, chỉ thấy đại bàng trắng lại bổ nhào trở xuống, nhanh hơn chớp lóe, xông về phía thiếu nữ vừa quắp vừa mổ. Diệp Linh Tô vung chưởng lên nghênh tiếp, nhưng đại bàng trắng hết sức linh hoạt, chưởng phong vừa đến nó lập tức bay tránh đi xa. Đợi thiếu nữ lộ ra sơ hở, nó liền bay nhào đến, cứ thế tiến tiến lùi lùi nhịp nhàng như có dáng dấp của đại cao thủ.

Nhạc Chi Dương trố mắt há mồm theo dõi trận chiến một người một chim trên cây. Hai bên đến đi như gió, mấy lần suýt chạm nhau, Diệp Linh Tô liên tiếp bắn ra mấy mũi châm đều bị đại bàng né được. Bất chợt cô dùng mưu kế, bước chân ra vẻ lảo đảo, lắc lư chực ngã, đại bàng chung quy cũng là loài chim muông, nào biết đến sự xảo trá của thế gian, lập tức vỗ cánh sà đến. Tay trái Diệp Linh Tô bỗng vẫy nhanh, đại bàng e sợ chưởng phong của cô liền chao mình nhảy tránh hơn vài thước, dè đâu tay phải Diệp Linh Tô giơ lên, kim châm bắn ra vun vút, xuyên qua bộ lông trắng muốt của nó.

Đại bàng cất lên tiếng kêu thảm thiết, phóng vút lên không trung, dáng hình tựa mũi tên vừa buông cung, bay đến vách núi cao bên trên, nhoáng cái đã không còn thấy đâu nữa.

Nhạc Chi Dương từng nếm qua mùi vị khổ sở của Dạ Vũ Thần Châm, kim châm xâm nhập vào cơ thể thì đến con người còn không chịu nổi huống hồ loài chim. Đại bàng trắng sau khi trúng châm rồi mà còn có thể bay cao đến thế, nếu như không phải xương đồng gân thép thì nhất định là loài yêu mị trên biển.

Diệp Linh Tô ngẩng đầu lên nhìn trời, dáng vẻ ngơ ngẩn thất thần. Nhạc Chi Dương trèo lên bên cạnh cô, nhìn kỹ lại, ở vị trí gần nơi tiếp giáp với đỉnh núi có một hang động, nhưng vì bị đá lồi lõm che khuất nên nếu không quan sát cẩn thận, tuyệt đối không dễ phát hiện ra.

– Đó là hang ổ của con chim ấy à? – Nhạc Chi Dương líu lưỡi nói: – Chim gì lợi hại dữ vậy không biết!

– Đó mà là chim ư? – Diệp Linh Tô còn chưa hết hoảng hốt: – Nó nhanh đến không tưởng nổi!

Nhạc Chi Dương mỉm cười:

– Nhưng nhanh thế nào chăng nữa cũng không bằng Dạ Vũ Thần Châm được.

Diệp Linh Tô liếc nhìn gã, định nói gì đó lại thôi, một lúc sau ảo não hỏi:

– Ma Vân đâu?

Nhạc Chi Dương mấp máy môi không đáp, Diệp Linh Tô nhảy khỏi cành cây, nhìn xuống thi thể của chú chim mà lặng người hồi lâu, lát sau cô rút kiếm đào một hố nhỏ, chôn cất cho chú chim cẩn thận. Nhạc Chi Dương nhìn nấm mồ nho nhỏ ấy, trong lòng cũng xốn xang ray rứt. Ma Vân chết rồi, con đường cầu viện cũng bị đứt đoạn, muốn thoát khỏi hòn đảo này có lẽ phải tìm biện pháp khác.

Chợt nghe Diệp Linh Tô giục:

– Đi thôi!

Tâm trạng của cô lúc này rất tệ, nói đi là quay đầu đi ngay. Nhạc Chi Dương không dám chạm vào nỗi buồn của cô thêm nữa, đành ủ rũ đi theo phía sau.

Hai người dọc đường đi gom nhặt theo vài bó cỏ khô, về gần đến hang động chợt nghe vọng đến tiếng người. Nhạc Chi Dương cảnh giác ra hiệu cho Diệp Linh Tô, hai người len lén tiến chậm về trước, vén bụi cây ra, giương mắt quan sát, chỉ thấy Xung đại sư, Minh Đấu và Tịch Ứng Chân đang đứng theo thế chạc ba đối diện nhau ở trước cửa động. Diệp Linh Tô sốt ruột định nhỏm người bước ra thì bị Nhạc Chi Dương giữ tay áo lại.

Diệp Linh Tô quay lại trừng mắt, chợt thấy Nhạc Chi Dương đưa ngón trỏ ra viết xuống nền đất: “Nấp trong chỗ này, dùng phi châm chào hỏi bọn chúng.”

Diệp Linh Tô khẽ chau mày, Dạ Vũ Thần Châm tuy là ám khí nhưng uy lực cực lớn, từ khi cô luyện thành đến nay đều là phát châm ở phía chính diện, hiếm khi nào đánh lén sau lưng người khác. Mưu kế của Nhạc Chi Dương tuy hay nhưng lại không được quang minh lỗi lạc.

Trong lúc đang do dự bỗng nghe Xung đại sư cười nói:

– Tịch chân nhân, ngài thật sự không chịu nói ra lối vào mộ huyệt à?

Hai người nghe vậy đều giật mình, nghĩ thầm Tịch Ứng Chân làm sao mà biết được cửa vào mộ phần ở đâu cơ chứ?!

Đạo sĩ trầm tư một lúc chợt cười hỏi:

– Đại hòa thượng, sao ông đoán là ta biết được lối vào?

– Ngài vừa lên đảo là lập tức bàn về chuyện phong thủy. Ta vừa nãy tìm kiếm lối vào, tìm mãi chẳng được mới sực nhớ đến việc này. Nếu như Thích Ấn Thần tin vào phong thủy, vậy thì cửa vào mộ huyệt hẳn sẽ liên quan đến phong thủy. Đáng tiếc bình sinh ta quá tự tin, chưa bao giờ hứng thú với những chuyện ngoài lề, đối với kiến thức phong thủy thật sự hiểu biết giới hạn. Nghe danh Tịch chân nhân tinh thông thuật số âm dương đã lâu, hòa thượng đành phải mặt dày đến đây, thỉnh cầu chân nhân chỉ cho một con đường đúng đắn.

Hai người Nhạc – Diệp nghe đến đây, thảy đều rủa thầm: “Tên lừa trọc da mặt dày thật, cho dù Tịch chân nhân biết đi chăng nữa thì cũng chẳng có lý do gì phải nói cho y cả?”

Lại nghe Tịch Ứng Chân cười khà khà:

– Đại hòa thượng, người tìm đến hỏi ta, liệu có sai người không đấy?

– Không đâu, không đâu – Xung đại sư cười ha hả: – Tịch chân chân, chúng ta trao đổi thế này đi, nếu như cổ mộ Ấn Thần thật sự có kho báu và bí tịch, bọn ta sẽ chia cho ngài một phần được không?

– Buồn cười! – Tịch Ứng Chân cười lạnh: – Ta mà biết thì tự mình đến chiếm lấy và bỏ đi rồi, mắc gì phải nói cho các ngươi chứ?​

Xung đại sư cười bảo:

– Chân nhân không giống chúng ta, ngài là Đế Sư của Đại Minh, thống lĩnh Đạo giáo cả thiên hạ, chuyện tốt đẹp trên đời đều hưởng thụ cả rồi, những thứ khác đâu còn ở trong mắt của ngài nữa. Võ công của Thích Ấn Thần tuy ngài biết nhưng không lấy, không phải vì ngài không thể mà là không cần đến mà thôi!

– Lạ nhỉ? – Tịch Ứng Chân điềm giọng: – Ngươi biết rõ tâm tư ta như vậy, vì sao còn phải phí nước bọt thuyết phục?

– Không vì gì cả! Chỉ là, yêu cầu này của ta, chân nhân không thể không đồng ý.

Tịch Ứng Chân cười khà khà, vỗ tay:

– Thú vị, thú vị, ngươi muốn dùng võ công bức ép ta nghe theo ngươi à?

– Không dám! – Xung đại sư cười đáp: – Nhưng Tịch chân nhân ngài có biết, vì sao ta lại giao Thiên Cơ Thần Công Đồ cho ngài không?

Tịch Ứng Chân nói:

– Do bức bách không có sự chọn lựa nào khác, lẽ nào còn có lý do khác ư?

– Không hẳn, không hẳn! – Xung đại sư lắc đầu: – Hòa thượng bình sinh làm việc gì cũng không để ai ràng buột. Tịch chân nhân, ngài có tin hay không, ta có thể giao sách cho ngài thì cũng có thể thu hồi lại đấy.

Tịch Ứng Chân nhướng mày:

– Nếu ta không tin thì sao?

– Được thôi! – Xung đại sư khẽ mỉm cười, chắp tay nói: – Vậy thì chúng ta bốn ngày sau gặp lại.

Tịch Ứng Chân thoáng biến sắc, đôi mi nhướng cao. Nhạc Chi Dương cũng giật thót trong bụng, nhìn sang Diệp Linh Tô. Thiếu nữ khẽ cắn môi, mặt mày tái nhợt.

Im lặng một lúc sau, Tịch Ứng Chân từ từ cất tiếng:

– Đại hòa thượng, ngươi cũng biết về chuyện “Nghịch Dương Chỉ” sao?

– Trước khi chân nhân kịp đuổi theo, Minh tôn chủ đã mang toàn bộ chuyện kể hết cho ta biết. Tịch chân nhân thân mang kỳ thương, nếu như không ai cứu chữa, chỉ có thể sống được bảy ngày. Minh huynh nhẩm tính kỹ lại, lẫn cứu chữa gần nhất là vào ba hôm trước, cách ngày phát tác chỉ còn bốn hôm nữa. Cách thức chữa trị trên đời này chỉ có hai người biết được, một ở xa tận Côn Luân, một thì chẳng biết đi đằng nào, sức kiên nhẫn của bần tăng cao lắm, chỉ cần chờ hết bốn ngày nữa, quyển sách ấy tự nhiên sẽ trở về tay mà thôi.

Tịch Ứng Chân hừ một tiếng:

– Đại hòa thượng, ngươi vọng tưởng à? Trong bốn ngày tới, ta có thể hủy đi pho sách này bất cứ lúc nào.

– Tùy ý chân nhân thôi. – Xung đại sư mỉm cười, ánh mắt lóe lên sắc lạnh: – Nhưng khi ấy chân nhân đã cưỡi hạc về Tây rồi, không có Thiên Cơ Thần Công Đồ làm vật bảo hộ, thủ hạ của ngài – một nam một nữ – e là không ổn cho lắm.

Tịch Ứng Chân trầm ngâm giây lát, thở dài nói:

– Đại hòa thượng , nói như vậy là ngươi muốn ép ta phải giết ngươi rồi.

Xung đại sư bật cười:

– Chân nhân bản tính nhân hậu, nếu muốn giết ta thì đã giết từ lâu rồi, sao phải chờ đến bây giờ?

Tịch Ứng Chân chẳng nói gì thêm, chỉ chăm chăm nhìn Xung đại sư một lúc, đoạn từ từ lên tiếng:

– Hòa thượng, bản chất của ngươi lanh lợi mạnh mẽ, đầu óc thông minh, Kim Cương Môn chỉ một nhánh đơn truyền, lệnh sư chọn ngươi làm đồ đệ quả thực là không chọn sai. Đáng tiếc, tài và đức lại không đi cùng nhau, ai đó từng nói “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”(*), nếu không có đức hạnh, lại thiếu đi tài hoa, thì chỉ gây tội ác thêm nhiều. Đại hòa thượng, nếu ngươi còn chút lương tri, hãy sớm hồi tâm chuyển ý mà quay lại, đừng phụ lòng kỳ vọng của lệnh sư nữa.

(ND chú: nguyên văn câu trên là “Tài Vi Đức Chi Tư, Đức Vi Tài Chi Suất” có nghĩa là tài năng là nhờ đức hạnh mà ra, đức hạnh là kim chỉ nam dẫn lối cho tài năng phát triển. Mình dịch vui, mượn câu nói của 1 ai đó cho nó quen tai vậy ^^)

Xung đại sư gật gật đầu:

– Tịch chân nhân, ta và ngài tuy quen biết chưa nhiều, nhưng ta kính nể ngài ba phần. Tiếc rằng phục quốc là chuyện trọng đại, chỉ có thể tiến không thể lùi, chân nhân một mực cố chấp kiên định, hòa thượng đành phải chờ qua bốn ngày, bốn ngày sau ta nhất định sẽ trở lại thỉnh giáo cao chiêu.

Nhạc Chi Dương nghe đến đây, nhịn không được nhảy xồ ra quát lớn:

– Lừa trọc, chỉ cần Nhạc Chi Dương ra còn một hơi thở, ngươi đừng mong tổn hại đến một sợi tóc của Tịch đạo trưởng.

Minh Đấu cười gằn:

– Thằng chó con, bản lĩnh không tới đâu mà miệng mồm cũng mạnh ra phết.

Nhạc Chi Dương giễu lại:

– Ta là chó con, còn nhà ngươi là phường chó săn, suốt ngày lẩn quẩn theo đuôi con lừa trọc chờ đớp phân của hắn.

Minh Đấu mặt mày sừng sộ, ưỡn người toan xông lên, chợt thấy Xung đại sư quay người bỏ đi, lão đành phải nín nhịn cái tôi cá nhân lại, hằn học nhìn Nhạc Chi Dương một lúc rồi lục tục đi theo sau y.

Diệp Linh Tô không nhịn được lớn giọng gọi:

– Tịch đạo trường, khách khí với bọn ác nhân này làm gì, ba người chúng ta hợp sức chưa chắc gì không cự lại bọn chúng.

Tịch Ứng Chân mặt lặng như nước, lắc đầu bảo:

– Vào trong động rồi nói.

Ba người vào trong động, Nhạc Chi Dương rải cỏ lát cành dưới nền hang ổn thỏa xong xuôi, Tịch Ứng Chân lặng lẽ hồi lâu chợt bảo:

– Nhạc Chi Dương, tiểu cô nương, đúng như hòa thượng vừa nói, ta chỉ còn sống được bốn ngày, có vài chuyện hậu sự cần dặn dò…

Nhạc Chi Dương nghe đến đây, trong lòng xốn xang không thôi, cao giọng bảo:

– Tịch đạo trưởng, ông đừng vội nản lòng, trời không tuyệt đường sống của con người đâu, nhất định có thể nghĩ ra cách gì đó mà!

Tịch Ứng Chân lắc đầu cười khổ:

– Nghịch Dương Chỉ một khi phát tác sẽ đối nghịch với khí huyết trong cơ thể, trừ khi khiến cho khí huyết toàn thân chảy ngược còn không thì đừng mong hóa giải. Khí huyết cơ thể vận hành vốn theo trật tự nhất định, muốn khiến cho nó đảo chiều cũng khó tin như chuyện làm cho trời trăng xoay ngược, đất trời đổi chỗ vậy.

Nhạc Chi Dương vừa nghe vừa sinh lòng tuyệt vọng, chợt Diệp Linh Tô trầm tư nói:

– Khí huyết chảy ngược không hẳn là không làm được, năm ấy “Tây Côn Luân” Lương Tiêu từng sáng chế ra một loại Chuyển Âm Dịch Dương Thuật, có thể khuấy đảo ngũ hành, xáo trộn âm dương.

Tịch Ứng Chân mỉm cười:

– Cô nương nói đúng, “Chuyển Âm Dịch Dương Thuật” chính là căn cơ của Nghịch Dương Chỉ. Tây Côn Luân suốt đời hành động theo cảm tính, trước nay không màng đến hậu quả. Ông ấy tạo ra Nghịch Dương Chỉ cốt ý muốn tìm tòi nghiên cứu võ học, kết quả khi lưu truyền hậu thế lại thành ra một hình phạt dày vò con người ta hết sức tàn khốc.

Nhạc Chi Dương nghe xong chợt khấp khởi hy vọng, vội nói:

– Diệp cô nương, cô là nữ… nữ đệ tử của Vân đảo vương, chẳng lẽ không học qua môn Chuyển Âm Dịch Dương Thuật này hay sao?

Gã nhất thời nhanh mồm, suýt thì thốt ra hai tiếng “nữ nhi” (con gái).

Diệp Linh Tô khẽ lắc đầu:

– Môn tâm pháp này được Lương Tiêu truyền lại cho Hoa Kính Viên, Hoa Kính Viên lại truyền cho tổ sư Vân Đình, học được một nửa, tổ sư Kính Viên bỗng nhiên mất tích, cho nên tổ sư Vân Đình cũng chưa luyện xong. Về sau, tuy ngài đã tìm cách bổ sung hoàn chỉnh nhưng chung quy vẫn không thể bằng được tâm pháp gốc, để tu luyện được nó thì rủi ro sẽ rất lớn. Tu vi của ta thấp kém, đảo vương sợ ta tẩu hỏa nhập ma cho nên không truyền thụ cho ta.

– Tiếc thật, tiếc thật!

Nhạc Chi Dương hận thiếu điều giẫm chân đấm ngực. Tịch Ứng Chân thì lại thản nhiên như không, ông bảo:

– Ý trời đã vậy, cải cũng không được. Có lẽ số bần đạo phải bỏ lại hòn đảo này. Trang Tử khóc vợ còn khua chum mà hát(*), sự sống cái chết, tính toán để mà làm gì?

(ND chú: tích “Trang Tử khóc vợ” như sau:

Vợ Trang Tử chết, Huệ Tử lại điếu, thấy Trang Tử đang ngồi soạc chân ra, gõ nhịp vào cái vò mà hát, Huệ Tử bảo: “Ăn ở với người ta, người ta nuôi con cho. Nay người ta chết, chẳng khóc đã là bậy rồi lại còn gõ nhịp vào cái vò mà hát, chẳng phải bậy lắm sao?”

Trang Tử nói: “Không phải vậy. Khi vợ tôi mất, làm sao tôi không thương xót? Nhưng rồi nghĩ lại thấy lúc đau, nhà tôi vốn không có sinh mệnh; chẳng những không có hình thể mà đến cái khí cũng không có nữa. Hỗn tạp ở trong cái khoảng thấp thoáng mập mờ, mà biến thành khí, khí biến thành hình, hình biến ra thành sinh mệnh. Bây giờ sinh lại biến ra thành tử, có khác gì bốn mùa tuần hoàn vận hành đâu? Nay nhà tôi đã nghỉ yên trong cái nhà lớn (tức là trời đất), mà tôi còn ồn ào khóc lóc ở bên cạnh thì tôi không hiểu lẽ sống chết rồi. Vì vậy mà tôi không khóc.”)

Ông càng an phận lạc quan, cõi lòng Nhạc Chi Dương càn thêm khó chịu. Nghĩ đến tình nghĩa hôm sớm có nhau suốt hai năm nay, nhất thời trái tim gã hụt hẫng, chua xót cơ hồ chực rơi lệ.

Bỗng nghe Tịch Ứng Chân lại nói:

– Ta còn sống một ngày, Xung đại sư sẽ không dám đến kiếm chuyện. Sau khi ta chết, y nhất định sẽ nghĩ ra trăm phương ngàn kế đối phó hai đứa. May mà Nhạc Chi Dương lanh trí, ép y giao ra Thiên Cơ Thần Công Đồ. Pho sách này có can hệ đến đại nghiệp phục quốc của bọn Mông Nguyên, cho nên có thể khống chế được y. Nhạc Chi Dương, pho sách này ta giao lại cho ngươi giữ gìn, bất kể thế nào cũng phải bảo vệ bình an cho Diệp cô nương.

Lão đạo nói đến đây, tay cầm quyển sách đưa cho thiếu niên. Diệp Linh Tô trong bụng phật ý: “Quyển sách này là vật của Đông Đảo ta, sao lại giao cho cái tên ranh ma này chứ? Hắn ngoài ăn không nói có thì còn bản lĩnh nào đáng kể đâu? Hứ, còn nữa, hắn có tài đức gì mà đòi bảo vệ bình an cho ta?”

Đang bất bình, cô chợt thấy Nhạc Chi Dương đứng đực ra đó, không hề nhận lấy quyển sách. Tịch Ứng Chân không vui bảo:

– Nhóc con, ngây ra đó làm gì?

Nhạc Chi Dương lắc đầu:

– Đạo trưởng, một ngày ông còn chưa chết, chúng ta sẽ tiếp tục tìm biện pháp, chỉ cần ông còn một hơi thở sau cùng, quyển sách này vẫn do ông bảo quản.

Tịch Ứng Chân chau mày:

– Nhóc con, ngươi trước giờ thông minh, sao lúc khẩn cấp như vầy lại không chịu hiểu đại cuộc vậy?

– Đạo trưởng đánh giá cao ta rồi – Nhạc Chi Dương cười khổ: – Ta chỉ là gã lưu manh ven sông Tần Hoài thì hiểu cái gì mà đại cuộc tiểu cuộc chứ? Ta mà tiếp sách thì há chẳng phải đã ngầm công nhận ông chết chắc hay sao? Lấy cái chết của đạo trưởng đổi lấy hai tính mạng bọn ta, Nhạc Chi Dương vạn lần không làm được!

Tịch Ứng Chân vừa giận vừa cảm động, liên tục lắc đầu:

– Thằng nhóc nhà ngươi, đúng là lừa mình dối người.

Nói đến đây, ông nhắm mắt lại, lạnh lùng bảo:

– Thôi vậy, hai đứa ra ngoài cả đi.

Nhạc Chi Dương lặng lẽ lui ra khỏi hang động, dõi nhìn mặt biển xa xăm đằng trước, nghĩ đến tiền đồ gian nan mờ mịt, cõi lòng cảm thấy buồn rười rượi. Chợt gã ngửi thấy một mùi hương ngan ngát, đưa mắt nhìn lại, hóa ra Diệp Linh Tô đã đứng bên cạnh từ lúc nào. Đôi tròng mắt của cô trong như thủy tinh, lặng im nhìn gã hồi lâu, chợt thốt:

– Vừa rồi, ngươi làm rất đúng.

Nói dứt lời, mặt hoa phớt hồng, cô phất tay áo xoay người đi về phía xa.

Một lúc sau, cô quay trở lại, trên tay ôm theo vô số đất sét, kế đó bày ra mặt đất, nặn thành hình thù chén đĩa. Nhạc Chi Dương hiểu ý của cô, tinh thần trở nên phấn chấn, liền tiến lên trợ giúp. Hai người chẳng ai nói với ai lời nào, ngồi đối diện cùng nắn đất, tạo hình mâm to chén nhỏ, thau chậu các loại, tiếp đó dựng bếp lò để nung gốm.

Sau khi nung gốm xong, Nhạc Chi Dương bắt về một con dê núi, lại mượn của Diệp Linh Tô một mũi kim châm, uốn thành hình lưỡi câu, tuốt sợi tơ làm dây, câu lên hai con cá lớn, đem băm nhuyễn thịt dê dồn hết vào bụng cá, trải qua quá trình chế biển tỉ mỉ, sau cùng đã hoàn tất món “Ngư Dương Tiên” bưng vào trong hang động.

Vốn dĩ cá tanh dê hôi, nhưng sau khi trải qua một phen chưng cất, không những mùi tanh hôi bay biến đi mất, mà hương thơm còn bốc lên ngào ngạt, vào miệng rồi càng trở nên tuyệt hảo, vì cá dưới biển cần nhai thật kỹ, nên còn có thêm một mùi vị mằn mẵn hòa quyện. Tịch Ứng Chân nếm thử rồi khen ngợi không ngớt lời, quên mất cơn bực bội lúc nãy, cười khà khà bảo:

– Hai từ “Ngư”(鱼) và “Dương”(羊) hợp lại thành chữ “Tiên”(鲜), cổ nhân thật không lừa ta. Nhạc Chi Dương , ngươi làm món này chứ có biết về lai lịch của nó không?

Nhạc Chi Dương cười trừ:

– Ta chỉ là kẻ vá áo túi cơm, làm đồ ăn thì biết chứ lai lịch của nó thì mù tịt.

Tịch Ứng Chân nói:

– Bắc chuộng thịt dê, Nam chuộng món cá, hai thứ này tưởng chẳng dính dáng gì nhau, nào ngờ đến thời Xuân Thu, nước Tề bỗng xuất hiện một kỳ tài nấu nướng, tên gọi là Khiếu Dịch Nha, là đầu bếp của Tề Hoàn Công…

– Ta có nghe về nhân vật này! – Hàng mi của Diệp Linh Tô khẽ nhướng lên: – Hắn ta chẳng phải là một tên đại gian thần ư?

– Nấu ăn thì không liên quan đến trung hay gian. – Tịch Ứng Chân xua xua tay: – Gian thần từ xưa đến nay đa phần đều là những nhân vật cực kỳ thông minh. Triệu Cao tinh thông luật lệnh, Thái Kinh thư pháp tuyệt diệu, Tần Cối là trạng nguyên của Đại Tống, văn chương tự nhiên trôi chảy. Tên Dịch Nha này tuy nhân phẩm không tốt nhưng tài nấu nướng thì lại được trời phú cho. Hắn dùng phương pháp độc quyền, mang cá Nam dê Bắc kết hợp lại với nhau, trong bụng cá có chứa thịt dê, điều chế ra một món mỹ vị hảo hạng. Tề Hoàn Công sau khi thưởng thức xong liên tục khen ngon, từ đó càng thêm tín nhiệm hắn ta. Có câu “Cá tanh dê hôi”, ý bảo chỗ khó nhất ở đây chính là khử đi mùi tanh hôi mà không phạm đến chất vị vốn có của dê và cá, vừa ngon vừa phân biệt rõ ràng, nếm vào là biết đâu là vị cá đâu là vị dê.

Nhạc Chi Dương vội hỏi:

– Đạo trưởng đánh giá món ăn của ta thế nào?

– Không tệ, không tệ. – Tịch Ứng Chân vuốt râu cười: – Vừa ngon vừa tươi, chẳng kém cổ nhân là mấy. Ta chỉ lấy làm lạ, thằng nhóc nhà ngươi từ đâu học được món ngon thế này?

Diệp Linh Tô nghe xong cũng thấy tò mò, ánh mắt chuyển sang liếc trộm Nhạc Chi Dương, thấy gã cười khì khì:

– Nào có học ai đâu, toàn là do đói bụng mò ra đó! Cha ta lười nhác đến nỗi không phân biệt được ngũ cốc, thà nhịn đói đọc sách chứ không chịu động vào bếp núc, ta mà không biết nấu ăn nữa thì chắc sống không nổi. Hơn nữa, do tiền nong eo hẹp, không mua được thịt heo thịt dê trong chợ, nên ta thường cùng Giang Tiểu Lưu ra vùng ngoại ô tìm các món ăn dân dã, bắt chước theo đám đầu bếp của thanh lâu, lâu ngày dài tháng cũng học được cách chế biến vài món ăn. Hai vị không biết chứ nói đến ẩm thực thì đầu bếp giỏi nhất kinh thành toàn ở bến sông Tần Hoài cả đấy, các món ăn họ làm đa dạng phong phú lắm, ngay cả ngự trù ở Tử Cấm Thành cũng không bì được đâu!

Nói đến đây gã tự cảm giác buồn cười, nhưng thấy hai người còn lại đều đang ngây ra nhìn mình. Nhạc Chi Dương hiểu ra suy nghĩ bọn họ, nhưng tính tình gã cứng cỏi, ghét nhất là bị người khác thương hại, lập tức cố ý bảo:

– Hai vị, món này nên dùng khi còn nóng, để nguội rồi hương vị tanh hôi sẽ phát tán trở lại, vậy thì ăn không ngon đâu.

Tịch Ứng Chân thở dài bảo:

– Tay của Nhạc Thiều Phượng là để cầm bút khảy đàn, bắt ông ta lo liệu việc nhà thì đúng là phí tài. Lạ thật, ông ta sa sút đến như vậy, ngay cả bản thân còn không thèm quan tâm, vì sao còn thu nhận ngươi làm con nuôi nhỉ?

Câu nói này khiến cho Nhạc Chi Dương lại nhớ đến miếng ngọc bội hình bán nguyệt trên ngực, trước mắt cũng hiển hiện rõ ràng bút tích trong di thư của Nhạc Thiều Phượng năm ấy, xiết bao hoài nghi dâng ngập cõi lòng, hệt như sóng biển đại dương cồn cào xô đẩy. Bất chợt gã cảm thấy cục hứng, chả thiết ăn uống nữa, bèn đứng dậy đi ra khỏi hang động.

Lúc này sắc trời đã xế vãn, mặt biển lấp lánh ánh bạc hắt lên ngọn núi ở đằng sau, thoạt trông như một cây cột trụ bằng ngọc được phết mỡ dê bóng bẩy, trước núi là rừng tùng nhấp nhô, làn nước được nhuộm dưới ánh trăng trong vắt như thể dát bạc trên nền tuyết, liên tục xạt xào cuộn sóng.

Nhạc Chi Dương chứng kiến khung cảnh này, nỗi phiền muộn trong lòng cũng dần giảm đi. Gã vứt bỏ tạp niệm, lấy lại tinh thần, chạy một mạch lên trên mỏm đá ngầm nhìn khắp bốn phía, tứ bề là cỏ đá vây quanh, một cơn gió biển len qua rừng thổi đến, âm thanh lúc lớn lúc bé, lớn thì như cọp sư gầm rống, bé hệt như tiếng quỷ thều thào.

Nhạc Chi Dương nhắm mắt lại, các loại tiếng động to nhỏ thảy đều ùn ùn lọt vào trong tai gã, tiếng gió hay tiếng sóng thì không bàn đến, cả tiếng lá rơi khe khẽ, tiếng ngư long vượt sóng, lẫn cùng tiếng ri rỉ ra rả trong Hải Âm Mộng Điệp Trận cũng không đánh rơi một nhịp nào khỏi màng nhĩ của gã.

Rồi bất tri bất giác, tâm tư của gã bay bổng lên cao, len lỏi qua biển sao trời, tư tưởng lớn lao ùn ùn thoát ra, gom tụ dung hợp thành một thể thống nhất. Trạng thái này như mộng mà không phải mộng, diệu hoặc vô cùng, từ nhỏ đến lớn nó luôn ẩn giấu trong lòng gã, mỗi khi chán nản tuyệt vọng, buồn bã u phiền, chỉ cần tiến vào bên trong cảnh giới này thì sẽ lấy lại được hưng phấn.

Qua một lúc sau, Nhạc Chi Dương mở bừng hai mắt, thân thể mềm yếu lờ đờ nhưng tinh thần lại hết sức linh hoạt nhạy bén. Gã dõi nhìn biển cả, chỉ thấy sóng cuộn nhấp nhô hệt như một tấm lụa đào đen bóng lấp loáng. Quan sát một hồi, gã đưa sáo ngang miệng, trước tiên thổi “Dương Minh Thanh Vị Chi Khúc”, lại tấu đến “Thái Âm An Tì Chi Khúc”, thổi được một nửa, mình mẩy trên dưới như thể bị nhúng vào nước nóng, nhiệt tỏa hầm hập ấm áp, khí cơ rót vào lỗ chân lông, từng sơi lông tơ trên người như muốn dựng ngược lên.

Đột nhiên, hào quang trong người Nhạc Chi Dương lóe sáng, gã nảy ra một ý nghĩ đáng kinh ngạc: “Muốn phá Nghịch Dương Chỉ cần phải để cho khí huyết chảy ngược, nếu đem “Chu Thiên Linh Phi Khúc” đảo lại, không thổi “Dương Minh Thanh Vị Chi Khúc” mà trước tiên thổi điệu “Dương Kiểu” trong tám điệu của kỳ kinh, biết đâu có thể khiến cho khí huyết chảy ngược thì sao?”

“Chu Thiên Linh Phi Khúc” tổng cộng có hai mươi hai khúc nhạc tương ứng với mười bốn kinh và tám mạch của kỳ kinh, dựa theo thứ tự mà thổi ra, khí huyết sẽ chuyển động theo nhạc điệu, vận hành theo đường chính đạo của kinh mạch. Chiếu theo đạo lý này, nếu thổi xáo trộn hai mươi hai khúc nhạc thì có lẽ chân khí vận hành cũng sẽ chảy ngược theo.

Nghĩ đến đây, Nhạc Chi Dương có một sự phấn khích lạ lùng, trong màn đêm tăm tối đã tìm thấy chút ánh sáng le lói cuối cùng, nếu như dùng tiếng sáo đảo chiều khí huyết, vậy thì bài toán “Nghịch Dương Chỉ” khó nhằn đã tìm ra lời giải.

Gã hăm hở bắt đầu từ bài cuối “Dương Kiểu Điệu”, thổi một lượt hai mươi hai khúc nhạc thay đổi trật tự. Ở “Dương Kiểu Điệu” chưa thấy gì khác biệt, thổi đến bài thứ hai “Âm Kiểu Điệu”, gã chợt thấy chân khí như nóng dần lên, tả xung hữu đột trong hai mạch “Dương Kiểu” và “Âm Kiểu”, hỗn loạn đến mức huyệt đạo kinh mạch ngầm nhói đau.

Hai kinh mạch này thuộc kỳ kinh bát mạch, khí mạch hết sức yếu ớt, như có như không, sau khi luyện thành kỳ kinh bát mạch, có được chân khí sung mãn rồi mới có thể ung dung dẫn dắt. Vì vậy trên đời này, chiếu theo luyện khí chính tông thì hai mạch “Dương Kiểu” và “Âm Kiểu” đều ở vào giai đoạn tu luyện cuối cùng, Nhạc Chi Dương làm như vậy, căn bản là đang làm trái với lẽ trời.

“Âm Kiểu Điệu” còn chưa thổi xong, luồng khí nóng hôi hổi càng lúc càng bành trướng, hệt như một con rắn nhỏ bị nhốt trong hai mạch, trườn quẫy lung tung khiến cho kinh mạch tê ngứa buốt đau, khó chịu khôn tả. Nhạc Chi Dương vốn định bỏ cuộc, thế nhưng cứ nghĩ đến tính mạng của Tịch Ứng Chân không còn bao lâu nữa, gã lại cắn răng cố chịu đựng. Gã thổi đi thổi lại hai khúc “Dương Kiểu”, “Âm Kiểu” đến bảy tám lượt, cổ chân khí nọ vẫn không có động tĩnh, đang cảm thấy tuyệt vọng thì bất chợt cảm thấy mạch “Dương Kiểu” nhảy giật lên một cái, chân khí nhanh như chớp chạy thoát ra trước, vượt qua trở ngại trùng trùng, đi theo một đường lối trước nay chưa từng có đổ dồn vào mạch “Âm Kiểu”.

Nhạc Chi Dương mừng rỡ khôn xiết, vội thổi khúc thứ ba “Dương Duy Điệu” để đưa chân khí dẫn nhập vào mạch “Dương Duy”. Nào ngờ chân khí đi đến đây lại bị trì trệ không tiến thêm được, lại càng lúc càng nóng, hơi nóng xuyên qua cơ thể ra ngoài. Nhạc Chi Dương bất giác mồ hôi vã như tấm, gã thổi đi thổi lại mấy lần đều phí công vô ích, đột nhiên gã thở phì một hơi buông sáo xuống không thổi tiếp nữa.

Đang cơn chán chường, gã chợt nghe một tràng âm thanh phành phạch vang lên. Từ trên không trung sà xuống một thứ gì đó trắng loa lóa.​

Bạn đang đọc truyện trên: Dtruyen.com

truyện Đam Mỹ
truyện sắc
truyện full

Nhận xét của độc giả về truyện Linh Phi Kinh

Số ký tự: 0

    Bình luận Facebook